Thế kỷ thứ 19 rất được học đường các môn văn và sử học tại Mỹ chú ý. Lý do là thế kỷ đó có rất nhiều biến chuyển to lớn trong tư tưởng cũng như lịch sử phương Tây. Vì nhiều biến chuyển này vẫn còn ảnh hưởng đến thời nay, nên hàn lâm Hoa Kỳ vẫn nghiên cứu và giảng dậy nhiều lớp về châu Âu trong thời kỳ này, hoặc ảnh hưởng châu Âu đến nơi khác, hay phản ứng từ nơi khác đến châu Âu.
Ở Hoa Kỳ thì có khung cảnh lập nước thời đầu thế kỷ, rồi đến thời nội chiến khoảng giữa thế kỷ, cho tới kỹ nghệ toàn diện trong những thập niên cuối thế kỷ thay đổi xã hội cũng như vai trò quốc tế của nước Hợp Chủng Quốc trở nên đại cường quốc và đế quốc. Với những thay đổi to lớn, tư tưởng cũng như văn chương người Mỹ cũng thay đổi, nhất là có khái niệm nhiều hơn về kinh nghiệm nước Mỹ – tiếng Anh là “the American experience.”
Nhưng phần lớn các trào lưu tư tưởng lớn nhất vẫn xuất hiện bên châu Âu hơn là châu Mỹ, và đến thế kỷ 20 thì ảnh hưởng tư tưởng Hoa Kỳ mới được châu Âu chú ý hơn. Thế kỷ 19 là thế kỷ lên cao của châu Âu. Về kinh tế, họ có cách mạng kỹ nghệ, bắt đầu từ nước Anh rồi qua nước Đức, nước Pháp, và các nước khác, kể cả nước Mỹ bên kia đại dương.
Về đối ngoại thì nó là thế kỷ của bành trướng qua thuộc địa hóa. Từ thế kỷ 15, 16, châu Âu thấy hai đế quốc Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha thuộc địa hóa không những Nam Mỹ và Bắc Mỹ, mà còn cả một số vùng đất tại châu Phi và châu Á (kể cả Phi Luật Tân). Qua thế kỷ 17 và 18, các nước như Anh, Pháp, và Hòa Lan cũng đi theo con đường thuộc địa, nhất là bên hai châu Mỹ. Ngay trong tiểu thuyết Thuyết Phục của Jane Austen mà chúng ta tìm hiểu kỳ trước, sự có mặt của vài thuyền trưởng biểu hiện được con đường thuộc địa hóa đó vào cuối thế kỷ 18. Đó là vì hải quân Hoàng Anh không những chiến trận với các nước khác, mà còn lo an ninh cho các tàu bè thương mại giữa nước mẹ và các thuộc địa.
Nhưng phải đến thế kỷ 19 mới lên tới đỉnh cao kỷ nguyên thuộc địa hóa từ các nước châu Âu. Đây là thời gian mà người Việt quen thuộc khi học về sử nhà Nguyễn bị nước Pháp xâm lấn và cuối cùng đất nước trở thành thuộc địa. Còn đế quốc Anh thì thuộc địa hóa nước Ấn Độ cũng như nhiều địa phương nhỏ bé hơn ở châu Á cũng như châu Phi. Nước Đức cũng nhảy vào đường lối thuộc địa bên châu Phi, và ngay cả nước nhỏ bé như nước Bỉ cũng có thuộc địa tại Công Gô.
Lịch sử thuộc địa rất ư rắc rối, chúng ta không thể kết luận tàn tàn hay vắn tắt là nó như thế này hay thế kia. Nhưng vấn đề thuộc địa nghĩa là kỹ thuật, kỹ nghệ, và khoa học bên châu Âu, nhất là bên Tây Âu và Trung Âu, đang đà lên cao làm thay đổi lối sống như văn hóa thời Internet thay đổi xã hội và cuộc sống chúng ta trong hai mươi năm vừa qua.
Nhưng cũng vì những biến đổi to tát này, mà tư tưởng người Âu trong thế kỷ 19 có nhiều tranh cãi và bàn luận. Đối với lịch sử Việt Nam chẳng hạn, tư tưởng cộng sản của Karl Marx tất nhiên là có ảnh hưởng sâu đậm sau này. Rộng rãi hơn là tư tưởng xã hội, dù không cấp tiến như chủ thuyết cộng sản nhưng vẫn theo triều lưu tiến bộ. Bớt hơn cộng sản và xã hội là các chủ thuyết như công lợi hay vị lợi (utilitarianism) và tự do (liberalism). Và trên hết tất nhiên là chủ nghĩa tư bản (capitalism) bắt rễ trong nhiều xã hội từ những thập niên đầu thế kỷ.
Hiện sinh chứ không phải bản chất
Đó là một lý do nữa mà các lớp kinh điển thường vẫn dùng sách từ châu Âu hơn là từ Mỹ. Trong bài viết cho tháng này cũng như hai bài cho hai tháng tới, chúng ta tìm hiểu một chút về ba tác giả vĩ đại sống và viết trong thế kỷ 19: nhà tư tưởng học Søren Kierkegaard người Đan Mạch; Friedrich Nietzsche người Đức; và nhà văn Fyodor Dostoevsky người Nga.
Điều đặc biệt là cả hai tác giả viết về những vấn đề khác chứ không phải kinh tế, chính trị, xã hội. Dù rất khác, họ viết về phần tâm linh con người, cho nên tác phẩm họ dù được in hơn một trăm hay hai trăm năm năm, vẫn còn giá trị rất cao vì vấn đề họ viết có liên quan đến kinh nghiệm con người ở nhiều thời đại chứ không phải chỉ lúc đó.
Søren Kierkegaard thường được coi là cha đẻ của triết lý hiện sinh: existentialism trong tiếng Anh, hay existentialisme tiếng Pháp như các giáo sư thời VNCH có dậy trong trung học và đại học. Nietzche cũng như Dostoevsky cũng được coi trong những tư tưởng gia hiện sinh. Ba tác phẩm của họ trong loạt bài kinh điển này rất ư khác nhau. (Vì ảnh hưởng Pháp Học, tư tưởng hiện sinh phổ thông thời VNCH thường là các triết gia người Pháp sống trong thế kỷ 20 như Jean-Paul Sartre, Albert Camus, và Gabriel Marcel.) Nhưng điều giống nhau là tư tưởng họ quan trọng nhất về cuộc sống, về hiện sinh trên trái đất này, chứ không phải tranh cãi về bản chất con người là như sao hay phải thế nào.
Đây là một điều hơi khác biệt với văn hóa và tư tưởng phương Đông, nhất là tư tưởng đạo Khổng có nhiều ảnh hưởng trong văn hóa Trung Hoa, Đại Hàn, và Việt Nam. Nếu triết lý Khổng Tử nhấn về lối sống trong xã hội, thì truyền thống triết lý bên phương Tây nói nhiều về bản chất. Cho nên tư tưởng mới của những người như Kierkegaard, Nietzsche, và Dostoevsky có khác thường với nền móng tư tưởng về bản chất con người hay bản chất thực tại (reality). Nhưng nói như thế cũng không có nghĩa là họ giống phương Đông. Các tác giả này nhất mạnh về bản thân riêng biệt và cá nhân (self), chứ không nói về con người trong khung cảnh tập thể hay cộng đồng như đạo Khổng.
Có nhiều lý do mà một số tác giả như Kierkegaard, Nietzsche, và Dostoevsky nhấn về hiện sinh. Một lý do chính là xã hội châu Âu càng giàu nhưng cũng càng nhiều lối tập thể, thành xã hội đại chúng (mass society) mất đi giá trị bản thân cá nhân.
Tại sao tên sách là Một Trong Hai?
Tác phẩm Một Trong Hai, tức Either/Or trong tiếng Anh, là quyển sách thứ nhì của Kierkegaard, ra đời lúc tác giả đúng ba mươi tuổi. Tác phẩm khá dầy, phải in ra hai quyển: quyển đầu nói về một lối sống, quyển kia dĩ nhiên là về lối sống khác. “Một trong hai” là vì tác giả muốn nói là nếu muốn thành bản thân, thành cá nhân, mỗi người phải lựa chọn cho hiện sinh mình, phải quyết định theo một con đường nhỏ hẹp chứ không thể sống lối không cam kết.
Theo Kierkegaard, có ba lối sống căn bản. Lối thứ nhất là sống “thẩm mỹ”: the aesthetic life. Từ “thẩm mỹ” ở đây không có nghĩa là sống đẹp hay sống nghệ thuật. Thường người sống lối này có mục đích theo đuổi niềm vui trong nhục dục. Nhưng nhục dục là sống thẩm mỹ còn kém, vì “loại sống” thẩm mỹ cao hơn là sống vừa qua quan sát và cảm nghĩ, vừa làm chủ trí nhớ mình. Thêm một điều nữa là người sống thẩm mỹ tự mình theo đuổi niềm vui, chứ không cần bạn bè, người yêu, hay ai cả. Người ngoài có thể nhìn nhận là người sống lối này cô đơn. Nhưng đối với họ, không dính líu tình người với ai là điều tốt vì nó cho mình tự chủ hoàn toàn.
Lối sống thứ nhì là sống theo luân lý hay đạo đức: the ethical life. Nhưng cũng như từ “thẩm mỹ” bên trên, Kierkegaard dùng từ “luân lý” hay “đạo đức” theo nghĩa rộng của ông, chứ không phải nghĩa hẹp như thường dùng. Kierkegaard không có ý nói luân lý theo ông là phải như thế này, chứ đừng như loại luân lý kia. Điều ông muốn căn bản hơn: rằng người sống luân lý có dùng ý chí của họ để lựa chọn cho chính mình. Nghĩa là họ khác người sống thẩm mỹ vì lối sống thẩm mỹ nhảy từ hướng này qua hướng kia, từ liên hệ này qua liên hệ khác, từ thái độ này vào thái độ nọ. Một số triết gia cho rằng chí tuệ là mầm móng hiện sinh. Một số khác cho xã hội là căn bản hiện sinh. Nhưng đối với Kierkegaard, lựa chọn (choice) mới là nền tảng hiện sinh. Người không có lựa chọn thì vẫn là người, nhưng không phải là một cá nhân đặc biệt và tự chủ như người có lựa chọn.
Lối sống thứ ba là sống theo đức tin hay theo tôn giáo: the religious life. Cũng như hai từ bên trên, Kierkegaard dùng từ này ám chỉ là người sống theo một tôn giáo, mà ông nói chung là người có đức tin vào Thiên Chúa. Người sống lối đức tin có cá thể và niềm tin cá nhân, chứ không phải người đi nhà thờ hay làm những việc tốt vì tôn giáo họ nói nên làm. Người sống đức tin chọn Thiên Chúa, và họ làm mọi điều gì Thiên Chúa nói họ làm, mặc dù điều đó có thể là trái với lý trí của họ.
Một Trong Hai chỉ nói sơ sài về lối sống thứ ba thôi, nhưng ông viết vài tác phẩm về lối sống đức tin. Trong quyển Lo Sầu và Run Sợ (tiếng Anh là Fear and Trembling), in sau Một Trong Hai chỉ vài tháng, Kierkegaard dùng thí dụ ông Abraham, tổ phụ dân Do Thái, là người biểu hiện cho lối sống này. Theo Kinh Thánh, có lúc Chúa bảo ông mang con trai duy nhất ra giết để cúng Chúa. Mặc dù điều Chúa nói trái ngược với lý trí con người, ông Abraham vẫn nghe lời Chúa, mang ra con trai tên Isaac mới mấy tuổi, lấy dao kiếm tính giết nó. Nhưng Chúa nói ông ngưng vì Chúa thử thách ông thôi. Điều mà Kierkegaard muốn nói là người sống lối đức tin có lúc không hiểu tại sao Chúa muốn mình làm, nhưng họ vẫn làm vì họ đã chọn tin vào Chúa.
Ngược lại với quyển Lo Sầu và Run Sợ, tác phẩm Một Trong Hai chú trọng về lối sống thẩm mỹ và lối sống luân lý. Mà cũng khác với chủ đề thần học trong quyển sau, Một Trong Hai chú trọng về tâm lý và triết học hơn. Vì vậy mà Kierkegaard được coi là một nhà văn đặc biệt: nhiều triết học, nhiều thần học, và nhiều tâm lý học. Ông chia tác phẩm làm hai tập: tập một gồm những bài luận viết bởi một anh chàng gọi là anh A, thể hiện cho đời sống lối thẩm mỹ. Trong tập này còn có một xấp nhật ký của một anh chàng sống lối thẩm mỹ tên là Johannes, viết về anh theo đuổi một cô gái trẻ và ngây thơ với mục đích biết cô thành một người lối thẩm mỹ luôn. Xấp nhật ký này là khúc sôi nổi nhất của tác phẩm dày cộm.
Còn hầu hết tập thứ hai có hai bài luận, viết theo lối lá thư. Kierkegaard vẽ ra tác giả hai lá thư là ông thẩm phán tên là William, nhưng cũng đươc gọi là ông B. Ông viết thư cho anh A, vừa giải thích về đời sống thẩm mỹ của anh, vừa kêu gọi anh bỏ lối sống đó mà vào con đường sống lối luân lý. Kierkegaard muốn người đọc hiểu rõ ràng về lối phân tách của mình, nên ông viết khá dài.
Anh A tác giả phần một viết về “sống lối thẩm mỹ” hay “lối sống mỹ thuật”: the aesthetic life, nghĩa không phải là sống nghệ thuật hay sống đẹp, mà là sống lối theo đuổi nhục dục cảm hứng của mình. Còn ông B tác giả phần hai thì về “sống luân lối lý,” tức the ethical life: nhưng cũng không hẳn là luân lý mà là sống có lựa chọn cho mình và cam kết với mình.
Lối sống thứ hai thì dễ hiểu hơn, vì ông B dùng hôn nhân làm thí dụ cho lối sống luân lý. Trong hôn nhân, người ta chọn lựa cho mình người phối ngẫu và sống theo cam kết với vợ hay chồng mình. Còn lối sống thứ nhất thì khó hiểu hơn, không những cho người Việt lớn lên tại học đường bên Việt Nam, mà ngay cả đến học sinh lớn lên bên Mỹ. Để dễ hiểu hơn, bài viết hôm nay chú trọng vào những chương quan trọng nhất của phần một cũng như chương một của quyển hai.
Phần một: hai cách sống thẩm mỹ
Anh chàng A mở đầu phần một với một loạt loạt văn khổ ngăn ngắn, có suy tưởng dài chỉ một câu, đến nhiều đoạn văn chỉ dài năm sáu hàng in, đến đoạn văn dài hơn chục hàng. Loạt văn này lúc thì than thở với đời, lúc thì sầu não rất cao, lúc thì dậy đời hay khinh đời. Anh ví anh là thi sĩ, mà còn là thi sĩ sống trong lâu đài của riêng, không ai hiểu được. Anh không bạn không bè, còn nói là “người bạn duy nhất là tiếng vọng lời tôi” là vì “tôi là người sầu não.” Không phải là anh A ghét người, nhưng là anh không thấy thú vị gì trong xã hội con người cả. “Nếu mày lấy vợ,” anh viết lúc gần cuối bài:
mày sẽ ân hận sau này. Nếu không lấy vợ, mày rồi cũng ân hận. Mà có lấy vợ hay không lấy vợ, mày cũng ân hận. Cười người cười đời, mày cũng ân hận sau này. Mà có khóc người khóc đời, mày rồi cũng ân hận. Cười hay khóc người với đời, mày đều ân hận hết. Có tin lời đứa con gái nào, mày sẽ ân hận. Mà không tin nó, mày rồi cũng ân hận. Tin hay không tin, mày đều ân hận hết. Có treo cổ tự tử, mày sẽ ân hận. Mà không treo cổ, mày rồi cũng ân hận. Có treo hay không treo, mày đều ân hận hết. Các bạn ơi: điều nói trên là tổng hợp khôn ngoan nhân loại.
Lời viết là lạ anh A ám chỉ cái khó khăn của chọn lựa trong hiện sinh. Anh cả quyết không nên chọn lựa, vì khi chọn cái này thì mất cái kia. Tốt nhất là sống không cam kết hay hứa hẹn điều gì cả.
Đó là tư tưởng người chán đời. Nhưng qua bài hay, anh A không chán nữa. Đó là vì anh kiếm được một ham mê: âm nhạc của vĩ nhân Mozart. Có hai lý do anh ham nghe Mozart. Thứ nhất, âm nhạc là nghệ thuật khác thường vì hình thức và nội dung gắn bó với nhau. Hình thức của âm nhạc là phải đi theo thời gian, vì nội dung nhạc khi trình diễn nhạc không thể nào tách ra ngoài thời gian. Khi đọc thơ hay xem tranh, người đọc có thể tạm ngừng ở giữa bài thơ để suy nghẫm nội dung. Nhưng vì nội dung và hình thức âm nhạc đi liền với nhau, thính giả không còn là thính giả nữa nếu suy nghẫm lúc đang nghe. Theo anh A, không nghệ thuật nào bầy tỏ trực tiếp bằng âm nhạc. Kierkegaard dùng từ immediacy – lập tức, ngay đó, trực tiếp – làm đặc điểm cho âm nhạc.
Lý do thứ hai là tác phẩm nhạc kịch (opera) tên Don Giovanni của Mozart. Nhân vật Don Giovanni, cũng có lúc gọi là Don Juan, theo đuổi hết phụ nữ này tới phụ nữ khác. Khi ngủ được với cô nào hay bà nào rồi là hắn theo đuổi một cô khác, một bà khác. Mozart viết nhiều nhạc kịch, nhưng A cho vở kịch về Don Giovanni là trọn vẹn nhất. Là vì kịch thể hiện đầy đủ nhất niềm say đắm nhục dục, tiếng Anh là sensuality, của người sống lối thẩm mỹ. Don Giovanni không kỳ thị phụ nữ trong tầng lớp, theo đuổi các cô quý tộc cũng như những cô hầu. Mà còn như âm nhạc, Don Giovanni sống cách trực tiếp với say đắm của mình, nghĩa là gồm cả sensuality cũng như immediacy. Cách sống theo đuổi này thể hiện nỗi niềm khao khát (desire) mà anh A cho rằng Mozart diễn tả rất suất sắc không ai bằng.
Theo kinh nghiệm người viết, các học sinh đại học, kể cả người viết ngày xưa, coi bài luận về Mozart là bài khó hiểu nhất trong kiệt tác Một Trong Hai. Có vài lý do, nhưng chắc lý do lớn nhất bài này nói về âm nhạc nhưng thật ra là về một khuynh hướng của lối sống thẩm mỹ. Sống như Don Giovanni là sống chạy theo thời gian. Như nội dung một trường ca âm nhạc, nhân vật này theo đuổi phụ nữ không ngừng, hết người này đến người kia. Nhưng đó chỉ là một cách sống thẩm mỹ thôi. Cách sống trực tiếp và nhục dục này có cao hơn cách sầu bi trong bài mở đầu của anh A. Nhưng nó thấp hơn một cách sống thẩm mỹ khác, đó là cách sống suy tưởng.
Cách sống suy tưởng trong tiếng Anh là reflectiveness, trái với immediacy và sensuality bên trên. Anh A giải thích cách sống trong một bài văn khác. Anh ví cách sống này với một cách trồng trọn của người nông phu: cứ mỗi mùa thì thay đổi cây quả, chứ không trồng một thứ quanh năm. Làm như thế, người sống mỹ thuật vẫn không cam kết hay chọn lựa, nhưng họ không cảm thấy chán như anh A cho thấy trong bài đầu tiên.
Ngoài ra, cách mỹ thuật này không theo đuổi đam mê trực tiếp với thời gian như Don Giovanni, mà chú trọng về sống động trong đầu mình. Nói cách khác, cách sống của Don Giovanni chú trọng về số lượng, và ông này có tiếng là chinh phục được hơn một ngàn phụ nữ. Nhưng cách suy tưởng chú trọng về chất lượng hơn số lượng. Người sống cách này có thể chỉ chinh phục được vài phụ nữ thôi, nhưng nó giúp những người sống trong thẩm mỹ đạt được một giá trị to lớn về thưởng thức. Don Giovanni thưởng thức được thể xác rất nhiều phụ nữ, nhưng giá trị không bằng được người thưởng thức được tâm trí của chỉ vài phụ nữ. Anh A còn nói thêm là trí nhớ rất quan trọng với cách mỹ thuật này, vì chúng ta có thể luyện trí nhớ nhớ điều này hay quên điều kia. Cuối cùng, A nhấn mạnh là cách sống rất ngẫu nhiên, không bị ràng buộc và ham gì thì theo nó chứ không phải đi theo thứ tự mà xã hội nhất định.
Phần một của Một Trong Hai kết thúc với một nhật ký của anh chàng tên Johannes. Không hiểu làm sao mà anh A có được nhật ký này, nhưng anh là người sửa chữa và viết tựa cho nhật ký. Trong nhật ký, hắn Johannes ghi lại cách sống mỹ thuật bằng đầu óc. Thường thường, hắn đứng xa nhìn các cô thanh nữ tại những nơi công cộng. Đúng hơn, mỗi lần xem, hắn chú ý vào một cô thôi, rồi nhìn ngắm cô ta như một người ngắm một bức tranh vậy. Trong nhật ký, Johannes diễn tả tỉ mỉ những chi tiết hắn thấy về cô ta, từ quần áo đến mặt mũi, từ giáng đi đến lối chân tay. Hắn còn đoán là cô ta nghĩ gì hoặc muốn gì, như dùng đầu óc tưởng tượng mình tạo ra một thưởng thức mỹ thuật cho mình vậy. Một ngày, hắn chú trọng một cô thôi, dù hắn thấy cô ta có ba phút hay ba mươi phút hay ba tiếng.
Nhưng có một ngày đó, Johannes thấy một cô gái trẻ dưới hai mươi mặc áo khoác mầu xanh da trời, đi ngang trước hắn khá nhanh. Hắn thấy có gì hấp dẫn về cô, nhưng xui là cô đi nhanh quá nên hắn chỉ thấy chút xíu. Nên hắn nhất trí phải đi kiếm cô cho được. Hắn đến công viên, nhà hát, những nơi công cộng. Nhưng không thấy cô đâu. Mãi một thời gian sau hắn mới thấy cô, và biết được cô tên là Cordelia, cha mẹ chết rồi, ở với bà bác cũng là người bảo quản của cô trong luật pháp. Johannes quyết định theo đuổi cô. Nhưng không phải là hắn muốn chinh phục tình yêu cô, mà là hắn nắn cô thành người mỹ thuật như hắn.
Kế hoạch chinh phục của Johannes có hai phần. Thứ nhất, hắn kiếm cách đến nhà cô Cordelia thăm hỏi, làm quen. Nhưng hắn không bao giờ nói chuyện với cô, mà chỉ với bà bác của cô. Johannes lấy lòng bà rất nhanh. Ngoài ra, cũng có một anh thanh niên tên Edvard cũng thích cô Cordelia. Nên hắn cũng thân thiện với anh Edvard này, làm anh nghĩ hắn là bạn chân tình muốn giúp anh thuyết phục Cordelia lấy anh làm chồng. Nhưng nghệ thuật lừa gạt của Johannes rất cao. Một mặt, hắn thuyết phục bà bác cho phép hắn cầu hôn với Cordelia. Vì quyền hành bác gái cô cao, Cordelia hơi lưỡng lựu nhưng cuối cùng cũng đồng ý lấy Johannes. Còn mặt kia, Johannes nói chuyện với Edvard làm sao, mà lúc đầu anh chàng bực tức vì không được lấy Cordelia làm vợ, nhưng sau đó anh cũng nhận Johannes là phải.
Đây là phần một của kế hoạch chinh phục. Sau khi đính hôn với Cordelia, Johannes bắt đầu kiếm cách biết cô như hắn qua cách viết thư. Hắn viết nhiều thư cho cô, dùng lời lẽ hoa mỹ cũng như ý tưởng làm cô từ từ nổi dậy lòng tình ái. Số là lúc trước đính hôn, Johannes có nhận thấy Cordelia có vẻ ghét hắn. Nghĩa là hắn thấy là cô dù là người con gái thụ động, nhưng cô có khả năng tình ái nếu được chỉ bảo. Và Johannes tự coi mình là người hướng dẫn những cô gái ngây thơ như Cordelia vào con đường tình ái. Mà tình ái không phải là hành động mà vào tâm hồn. Vì thấy được cô có vẻ ghét hắn lúc đầu, Johannes biết được là cô không có thụ động bên trong. Qua những lá thư đó, hắn làm cô dấy động ý tưởng lãng mạn cũng như tình dục của cô.
Johannes coi hắn là một nghệ sĩ: như một điêu khắc gia, một họa sĩ, hay một thi sĩ. Vì nghệ thuật này, Johannes coi kiểu cách thưởng thức mỹ thuật của hắn cao hơn và giá trị hơn thưởng thức như Don Giovanni, chỉ biết theo đuổi xác thịt và nhục dục chứ không phải qua nghệ thuật dụng người. Ngoài ra, nghệ thuật của Johannes còn nhiều thâm sâu. Hắn viết thư cho cô, nhưng lại không chịu gặp cô. Đến nỗi cuối cùng cô viết một lá thư chia tay với hắn. Nhưng ngược lại, cô cũng không bỏ được hắn trong tâm tư. Cô lại viết thư nói rằng cô yêu hắn. Johannes không trả lời; cô lại viết. Một lần nữa, rồi một lần nữa, nói là cô yêu hắn mãi mãi. Tức là Johannes đã chinh phục được tất cả Cordelia. Cô gái vĩnh viễn thuộc về hắn, dù hắn không lấy cô. Tới cuối nhật ký, Johannes cho biết là hắn gặp một cô gái khác, sống trong làng chứ không nơi thành phố như Cordelia. Tất nhiên là hắn coi cô như một Cordelia mới, và sẽ chinh phục cô như đã chinh phục Cordelia.
Phần hai: Lối sống luân lý
Ý tưởng Kierkegaard về lối sống mỹ thuật chắc là khó hiểu. Nhưng nó phản ảnh một thay đổi trong thời hiện đại của lịch sử loài người, khi mà xã hội chú trọng về cá nhân con người hơn. Mà xã hội cũng phức tạp hơn vì có thành thị hóa và kỹ nghệ hóa trong thế kỷ 19, cũng như cao tăng của giai cấp tư sản và tầng lớp trung lưu. Tầng lớp này có được nhiều lựa chọn cá nhân hơn trước, nhưng ngược lại họ cũng bị nhiều áp lực xã hội hơn trước. Hai nhân vật A và Johannes là biểu tượng của cá nhân hiện sinh, không muốn bị xã hội áp lực, mà muốn sống theo lối mình. Lối sống của hai anh này là lối mỹ thuật, không bạn bè thân cũng như không vợ con gì hết, nhưng cũng thể hiện chống đối với áp lực “ai cũng như ai” của xã hội trung lưu.
Nhưng Kierkegaard không coi lối sống mỹ thuật quan trọng nhất, là vì lấy sống luân lý giá trị hơn, hiện sinh hơn. Phần hai của tác phẩm phân tách về điều này. Phần này có hai lá thư cho anh A mà tác giả là ông thẩm phán Vilhelm (hoặc William), cũng được gọi là B. Trong lá thư đầu, ông B vừa la anh A sống lối sai lầm, vừa giải thích cho anh biết là đời sống luân lý, nhất là trong hôn nhân, cũng có nhiều mỹ thuật. Không những nhiều mỹ thuật, mà mỹ thuật giá trị hơn, cao sang hơn.
Để giải thích cho anh A, ông B dùng thí dụ hôn nhân của ông với vợ, cũng nh một số khái niệm trừu tượng. Một khái niệm quan trọng là khái niệm tình đầu, hoặc first love. Tình đầu là một kinh nghiệm khác thường trong đời người, vì nó chỉ sẩy ra một lần. Tình đầu cũng đặc biệt là vì nó tập hợp lại được những trái ngược khác nhau (tiếng Anh là “unity of opposites”). Trong tình đầu, người tình nhân cảm thấy như mình vừa dưới đất vừa lên trời, thời gian như vừa dừng lại và vừa đi mãi. Tình đầu làm người tình cảm được điều vô hạn (infinitude), một cảm súc hiếm khi có được. Rồi mục đích của tình đầu (teleology) là tình yêu thôi chứ không phải là vì con trai lớn cần có vợ, con gái lớn cần có chồng.
Theo ông B, anh A và những nhân vật sống mỹ thuật coi trọng tình đầu quá đáng, nên nếu mất tình đầu, họ không chọn lựa được người tình nào nữa. Nên họ theo đuổi phụ nữ như cách Don Giovanni hay cách Johannes. Dù hai cách khác nhau, mục tiêu tối đỉnh của chúng hao hao với nhau, vì cả hai theo đuổi vô hạn. Ông B giải thích là lối nhìn này sai lầm, là vì hôn nhân là nơi chốn mà có thể thành hoàn hảo được tình đầu. Ông nói là ông may mắn là vợ ông cũng là tình nhân trong tình đầu của ông, và hôn nhân là nơi mà tình đầu tiếp tục. Nhưng đó không có nghĩa là những người mất tình nhân đầu tiên không có được tình yêu hôn nhân như tình đầu. Ông B phân tích rằng trong hôn nhân, những kinh nghiệm của tình đầu được tăng lên gấp mấy lần: tập hợp những trái ngược, cảm tưởng vô hạn, và mục đích tình yêu.
Ngoài tình đầu ra, tình yêu lãng mạn cũng không bằng tình yêu hôn nhân. Những người sống lối mỹ thuật có thể sống với tình yêu lãng mạn, nhưng chỉ có tình yêu hôn nhân mới mang đến mỹ thuật cao nhất. Để giải thích khác biệt của hai tình yêu này, ông B gọi tình yêu lãng mạn chỉ có lịch sử bề ngoài (external history). Tức là người tình chú trọng về bề ngoài của tình yêu như làm sao mà chinh phục được người tình kia: như Don Giovanni hay Johannes vậy. Ngược lại, tình yêu hôn nhân có lịch sử bên trong, hay lịch sử thâm tâm (internal history). Lịch sử này cao quý hơn, là vì hai vợ chồng đi chung đường với nhau nên họ có những kinh nghiệm và kỷ niệm sâu đậm hơn.
Ông B gọi tình yêu hôn nhân là tình yêu lập được: tiếng Anh là “acquired love.” Đây mới là niềm tự tạo mỹ thuật nhất, nghệ thuật nhất, chứ không phải những chinh phục thể xác như cách Don Giovanni, hay chinh phục cảm tưởng tâm hồn cách theo Johannes. Trong thư thứ hai, ông giải thích thêm là lối sống của anh A cũng như hai người này sẽ kết cục trong thất vọng và tuyệt vọng (despair) vì nó chỉ đi vòng vòng, chứ không đến được kết quả mỹ mãn cho nguyện vọng của người sống lối mỹ thuật. Nếu thành thật muốn có hiện sinh tốt đẹp hơn, những người như anh A cần phải chọn. Anh phải chọn chính mình, chứ không có để mình lúc này lúc kia, con người mình không có nhất định.
Kết luận
Kiệt tác Một Trong Hai chỉ nói sơ sơ về lối sống đức tin, tức là lối thứ ba và cũng là cao quý nhất trong ba lối sống. Muốn biết thêm, chúng ta phải đọc những quyển sách khác của Kierkegaard. Nhưng tác phẩm Một Trong Hai phân tách tỉ mỉ hai lối đầu, nên cho ta thấy được tại sao hiện sinh quan trọng hơn bản chất. Ngoài giá trị triết học ra, tác phẩm còn liên quan đến tâm lý học, thần học, cũng như văn chương. Với tầm vóc đồ sộ này, tác phẩm dù không dễ hiểu nhưng vẫn được in, được đọc, được dậy tại đại học ngày nay.
Bấm vào đây nếu bạn muốn biết về một tác phẩm khác của Kierkegaard: Fear and Trembling mà tác giả dịch sát nghĩa là Kính Sợ và Run Rẩy. (Tôi nghĩ hay hơn thì dịch là Vừa Sợ Vừa Run.)


Leave a comment