Jean-Jacques Rousseau là nhân vật tư tưởng cách mạng từ thế kỷ 18 có ảnh hưởng to tát sau khi ông qua đời, nhất là trong thế kỷ 19.  Nhà văn hào Voltaire, người cùng thời với ông, thì ảnh hưởng sau này không bằng.  Nhưng lúc còn sống, thì gần như ai cũng công nhận là Voltaire tiếng tăm hơn Rousseau. 

Một lý do là Voltaire và Rousseau chết cùng năm – Voltaire đi trước có hơn một tháng – nhưng Voltaire ra đời trước Rousseau hơn mười bảy năm. Ông gây dựng tên tuổi sớm, nên đến lúc Rousseau bắt đầu sự nghiệp, Voltaire đã quá nổi tiếng rồi.  Lý do thứ hai là hai ông có nhiều tranh cãi tư tưởng và sau này ghét nhau. Đúng ra, Rousseau lúc đầu rất ư kính trọng Voltaire. Nhưng Voltaire không đồng ý cho lắm với tư tưởng Rousseau, kể cả quyển Luận Về Bất Bình Đẳng mà ông coi là thiếu lý luận và muốn mang con người trở về thời kỳ thiếu văn minh.  Rousseau dù nể tên tuổi Voltaire, nhưng ý tưởng ông có nhiều khác điểm qua, nên ông không chấp nhận lời phê bình của nhà tư tưởng đàn anh.  Nếu Voltaire theo tư tưởng tự do tiến bộ (liberal), Rousseau là nhân vật cách mạng cấp tiến (radical).

Rousseau thì ca ngợi trực giác, bản năng, và thiên tính con người. Ông đặt con tim trên trí óc, văn ông viết ào ạt tinh thần cách mạng, gần như muốn lật đổ xã hội vì ông coi xã hội lúc giờ tổn thương quá nặng bình đẳng và tự do con người.  Voltaire dù có chỉ trích xã hội, nhưng ông là người muốn cải cách ôn hòa hơn, vì ông tin vào lý trí con người hơn Rousseau tin.  Nếu Rousseau cho con người trong trạng thái thiên nhiên là đều tốt, Voltaire coi trạng thái thiên nhiên thiếu lý trí và nhiều đối lập với con người.  “Jean-Jacques làm triết gia,” Voltaire từng nói, “giống như khỉ làm người”: hao hao nhưng không bao giờ bằng.  Voltaire chửi rất đau.

Đúng vậy, một lý do khác giữa hai ông là Rousseau hai nghiêm trọng, nhưng Voltaire là vua châm biếm.  Vì châm biếm mà ông vào tù Bastille một thời gian.  Vì châm biếm mà ông phải bỏ Pháp qua nước khác vài lần. Voltaire sáng tác rất nhiều tác phẩm: kịch; thơ; luận về xã hội, chính trị, văn hóa; và nhất là quyển từ điển triết học dầy cộm và quan trọng nhất thời đó.  Nhưng tác phẩm phổ thông nhất của ông là quyển tiểu thuyết mỏng có tựa đề tên nhân vật chính Candide.  Tiểu thuyết viết theo lối châm biếm, tức là hài hước loại phê bình nặng nề làm độc giả vừa cười vừa khóc như không phải tếu lâm đơn thường. 

Phần một câu chuyện

Tiểu thuyết Candide còn có tên là Candide, hoặc Lạc Quan.  Lạc quan không phải là tên đệm của nhân vật Candide, mà là một triết lý sống có tiếng hồi thế kỷ 18.  Viết truyện này, Voltaire cố ý nhạo báng triết lý lạc quan vì ông coi nó vừa sai lầm vừa tác hại cho xã hội con người.

Câu chuyện có ba hồi: hồi nhất ở châu Âu, hồi hai qua Nam Mỹ, hồi ba trở về châu Âu. Cả ba hồi đều về anh chàng thanh niên có tên Candide, sinh ra bên vùng tây bắc nước Đức bây giờ, là con ngoài giá thú của một cô công tước.  Anh được ông bác là một quận công nuôi, lớn lên trong lâu đài bác và được ông thầy tên Pangloss dậy học.  Thầy Pangloss là tín đồ của triết lý lạc quan, tin rằng vì Chúa tạo ra thế gian nên cái gì cũng tốt ở trái đất này, ngay cả khi chuyện xấu xảy ra cũng có lý do tốt của nó.  Không những Pangloss tin vào triết lý, mà ông còn dậy cho học trò Candide của ông thành tín đồ như ông.  Một điểm căn bản của triết lý là đầu óc tín đồ luôn lạc quan dù cuộc sống có đau khổ bao nhiêu.  Nói theo tiếng Việt, chúng ta có thể tóm tắt tư tưởng này là: Có sao cũng được; cái gì cũng tốt.

Ông bác Candide có hai người con, một trai một gái, và có mướn một cô gái đầy tớ trong nhà tên Paquette. Còn con gái ông tên là Cunégonde, và một hôm cô thấy thầy Pangloss hôn hít làm tình với cô đầy tớ Paquette trong bụi cây sau nhà.  Đã qua tuổi dậy thì, Cunégonde muốn bắt chước nên lúc ăn tối, cô giả vờ làm rớt khăn mùi xoa tại bàn ăn để Candide lượm.  Cô cúi xuống để “dê” anh, và Candide cũng thích Cunégonde, nên hôn cô em họ mình.  (Chúng ta cần nhớ là ngày xưa, không có gì lạ về chuyện anh em họ yêu nhau hay lấy nhau ở bên châu Âu, nhất là ở các gia đình giầu có hay quý tộc.)  Nhưng ông bác công tước bắt gặp, nên đuổi anh ra lâu đài ngay lập tức.  Đó là bắt đầu cuộc chu du của chàng Candide, tướng cao ráo đẹp trai, trong lòng đầy sức sống nhưng tư tưởng còn non nớt với triết lý lạc quan bị đầu độc từ bao năm nay.

Ý Voltaire là triết lý lạc quan không hợp cuộc sống trong xã hội có nhiều bất công, nên ông tạo ra nhiều cảnh lạ thường, quá quắt.  Mới ra lâu đài, Candide bị hai hắn người Phổ lừa hắn gia nhập quân đội Phổ. Nhưng khổ cái là Candide không biết mình bị lừa vì tư tưởng lạc quan của anh ta lúc nào cũng: Ừ, có sao cũng được, cái gì cũng tốt hết.  Gia nhập quân đội, Candide bị đì rồi còn bị kết tội nhảm và trừng phạt nặng nề.  Nhưng anh lúc nào cố gắng, và gần bị xử bắn vẫn còn lạc quan. Nhưng mai là có ông vua Phổ đi ngang nên tha anh không bị xử tử. Họ đưa thân tàn anh vào nhà để hồi phục. 

Trong khi Candide đang bình phục thì quân đội Phổ có chiến tranh với một quân đội khác có tên là Abars. Hai bên Phổ và Abars đấu nhau rất tàn tệ, và Candide nhân dịp trâu bò giết nhau, bỏ trốn đi nơi khác, đôi tay chỉ có chút ít đồ ăn và con tim chỉ có mơ tưởng về Cunégonde và tình yêu với nàng.  Đến xứ khác, anh mai mắn gặp anh chàng tên Jacques, một tín đồ Thiên Chúa Giáo nhưng theo giáo phái Rửa Mới (Anabaptist): nghĩa là khác với đạo Công Giáo cũng như đạo Tin Lành ông Luther.  Người đạo này hiền hòa chứ không hiếu chiến, và anh Jacques mang Candide về nhà và giúp anh hồi phục sức khỏe. 

Đến một hôm, anh đi dạo ngoài đường và gặp một kẻ ăn mày.  Thấy người quen quen, anh dừng lại mới nhận ra là ông thầy Pangloss của mình chứ không ai lạ. Vội vàng mang thầy về nhà Jacques, anh mới biết là một thời gian sau khi anh bị ông bác đuổi, một nhóm quân lính Phổ ác độc đến tàn phá lâu đài.  Họ hãm hiếp Cunégonde nhiều lần, rồi giết cô cũng như ông anh cô và bố mẹ cô.  “Sao đi nữa,” Pangloss kết luận sau câu chuyện, “chúng ta được báo thù là vì bọn lính Abars làm y như vậy tại lâu đài láng giềng người Phổ.” 

Tới đây, chúng ta thấy được một mục đích của Voltaire: phê phán quân đội và nền cai trị dựa vào quân sử ở châu Âu bấy giờ.  Thật thế, tiểu thuyết châm biếm này có ý nhạo báng và phê bình các tổ chức và tầng lớp lớn lao trong xã hội thời đó, trong đó có quân đội.  Hai quân đội Phổ và Abars đều dã tính cả, hăng chiến lẫn nhau, và cướp bóc cũng như đàn áp nhân loại như nhau.  Ngay đến cách kiếm lach, họ không có tuyển chọn gì mà gặp thanh niên nào cao ráo khỏe mạnh như Candide là tìm cách lừa gạt họ gia nhập quân đội.  Một khi vào quân đội, thì họ bị bắt theo đời sống có nhiều thú tính cũng như kỷ luật trừng phạt.  Ngược lại, anh chàng Jacques là người nhiều nhân tính. Anh ta đơn giản hơn và tốt hơn quân đội cũng như các giáo phái Thiên Chúa hăng hơn về tranh chấp và đánh nhau.

Hai tháng sau, anh Jacques vì công việc thương mại phải đi tàu ba thành phố Lisbon, thủ đô của Bồ Đào Nha.  Candide nài nỉ với anh, xin cho mình và thầy Pangloss đi theo.  Trên tàu, Pangloss thử thuyết phục anh Jacques về tư tưởng lạc quan, nhưng anh không tin cho lắm.  Đến gần đến Lisbon, có cơn bão lớn làm tàu đắm một bên.  Một anh thủy thủ bị gió bão đánh xuống nước, làm anh Jacques chạy đến cứu. Nhưng cứu được thì Jacques ta lại bị rớt xuống nước và chết đuối vì anh thủy thủ không lấy mảnh ván cứu người cứu mình.  Candide tính nhẩy xuống biển, nhưng Pangloss cản lại, còn phán là cảng Lisbon xây ra lối này để người ta chết đuối như anh Jacques vậy.  Tức là theo lý thuyết lạc quan giải thích, không gì mà không vô lẽ được, không gì mà không có lý do của nó.  Lời giải thích lối này rất tức cười, nhưng ý Voltaire là một khi tín đồ tin quá vào triết lý hay tín ngưỡng gì, thì khó mà họ bỏ được lối nhìn đó mà còn kiếm cách giải thích hợp với gì mình tin.

Nhưng đau khổ con tiếp với Candide và Pangloss, vì vừa lên cảng thì một trận động đất mạnh xảy ra, tàn phá nhiều địa điểm trong thành phố và giết biết bao ngàn người.  Động đất hết thì anh chàng thủy thủ lúc nãy đi kiếm vàng bạc trong túi các xác chết, đi mua rượu uống rồi đi kiếm gái điếm.  Khi Pangloss la hắn, thì tên thủy thủ la lại, nói là lời ý tưởng ông thầy nhảm nhí, không sành đời như hắn.  Voltaire có thể ám chỉ là lý thuyết lạc quan không ảnh hưởng được gì đối diện với tàn phá của thiên nhiên.

Nhưng tệ hơn thiên nhiên là con người, là vì kế đó cả Pangloss lẫn Candide bị Bộ Tra Xét nước Bồ bắt.  Bộ Tra Xét là một cơ cấu vừa tôn giáo vừa chính trị, bắt nguồn từ thời Trung Cổ bên châu Âu, thay mặt giáo hội Công Giáo để tra hỏi hay bỏ tù những người có tư tưởng chống lại thần học Công Giáo.  Là một đối thủ của các giáo phái lớn, Voltaire dùng Bộ Tra Xét làm biểu tượng để nhạo và phê bình về tầng lớp xã hội xưa.  Vào lúc này, có người trong Bộ Tra Xét muốn lấy cớ bắt vài người, ghép tội ma giáo làm ra độc đất, rồi xử tử họ để dân chúng Bồ còn tin thần học chứ không chống lại giáo hội.  Khi Pangloss nói là con người có ý chí tự do, có nhân viên chìm tra xét nghe được, nên lấy cớ cho ông thầy và Candide vào tội dị giáo.  Hay người bị trói mang lên đài, Candide bị quất bằng roi, còn Pangloss bị treo cổ. Rồi thiên nhiên lại động đất một lần nữa.  Candide than, “Nếu thế gian này mà là nơi tốt nhất, không biết thế gian khác ra sao?”  Đây là lần đầu tiên anh ta tỏ ra ghi vấn về triết lý lạc quan: một thay đổi không nhỏ.

Nhưng ghi vấn không có nghĩa là từ bỏ. Một mục đính của truyện là thay đổi và cải tiến của nhân vật chính, nên thay đổi cũng chỉ từ từ chứ không ào ào.  Điều này không khác cuộc sống hầu hết chúng ta: ít bao giờ mà ta thay đổi một cái rụp được.  Tới khúc này, thì Candide mất ông thầy lần thứ hai, nhưng ngược lại anh gặp lại một cố nhân khác, khi một bà già xuất hiện dẫn anh đến một căn nhà ngoài thành phố, ở khu đồng quê hẻo lánh.  Khi vào nhà anh thấy một cô gái và nhận ra liền đó là Cunégonde.

Số là cô Cunégonde bị lính hãm hiếp và đâm một phát dao vào người, nhưng cô không chết.  Một sĩ quan Phổ giết tên lính đâm cô, rồi cứu cô về và giữ cô vì cô xinh đẹp.  Ngược lại, cô cũng thích sĩ quan này vì ông ta cao ráo to lớn. Sau ba tháng, ông chán cô và bán cô cho người khác: một thương gia gốc Do Thái.  Rồi còn một quan chức trong Bộ Tra Xét cũng ham sắc đẹp cô, ông bắt thương gia phải “chia sẻ” cô với ông.  Đó là tình trạng bây giờ: cô ở căn nhà ông thương gia làm chủ, nhưng phải hôm ngủ với ông này, hôm ông kia. 

Phải chăng Voltaire có ý là làm gái trong thời loạn nhiều tang thương, nên người nào có sắc phải dựa vào để sống?  Hoặc là ông muốn nhạo Pangloss và triết lý lạc quan, vì Cunégonde không phải sống theo lý thuyết?  Hoặc là điều khác?  Một lý do mà tiểu thuyết Candide thường được dậy trong các lớp kinh điển như ở Đại Học Pepperdine là câu hỏi thường không có một mà là hai hay ba hay bốn câu trả lời.

Sau khi Cunégonde kể chuyện, ông thương gia về nhà thấy được Candide. Ông lên tiếng chửi Cunégonde, rồi lấy con dao quân đội đâm thử Candide.  Nhưng Candide có áo mới cũng như đeo kiếm bà già người hầu Cunégonde đưa, nên anh rút ra đâm chết ông thương gia.  Một lúc sau, hắn quan chức trong Bộ Tra Xét cũng đến – và anh cũng cho ông đi luôn với một phát kiếm thứ hai.  Không thể ở lại nơi này được nữa, vì sớm muộn gì cảnh sát Bồ cũng như cảnh dát trong Bộ Tra Xét cũng điều tra ra được.  Non Candide và người yêu Cunégonde quyết định lên tàu đi nơi khác.  Họ mang theo bà già hầu việc vì bà ta thuộc về Cunégonde.  Họ quyết định đi qua Nam Mỹ vì nó rất xa châu Âu, lính Bồ khó kiếm, khó bắt.  Khi ra cảng, Candide giả làm lính Phổ, thổi bài kèn quân sự rất dẻo miệng, nên quân đội Phổ lên chức sĩ quan, cho lên tàu cùng cô Cunégonde, bà già hầu, hai người hầu khác, và hai con ngựa.  Tàu lên đường qua nước Á Căn Đình, và tới đây truyện hết hồi một.

Câu chuyện bà già

Xong hồi một, chúng ta có thể nhận định là Voltaire dùng chàng trai Candide ngây thơ làm dụng cụ chế diễu và đả kích lối tôn giáo, chính trị, quân sự, và kinh tế châu Âu.  Nó thể hiện cho thế kỷ của ông là Thời Đại Lý Trí – the Age of Reason theo tiếng Anh – lúc mà khoa học đang tiến nhanh. 

Với những khám phá mới về khoa học, lý trí được nâng cao và các cơ sở nghiên cứu khoa học to lớn được mở ra trong đại đế bên châu Âu.  Tại Ba Lê có Viện Hàn Lâm Pháp; tại Luân Đôn có Viện Hàn Lâm Hoàng Gia. Đây là hai viện nghiên cứu khoa học sớm nhất và lớn nhất, nhưng không phải là duy nhất.  Vì còn có Viện Hàn Lâm Bá Linh, Viện Hàn Lâm Turin bên Ý, và Viện Hàn Lâm St. Petersburg bên Nga.  Rồi sách báo về nghiên cứu khoa học càng ngày càng nhiều, mà ngay cả một số người không chuyên môn khoa học cũng đọc và theo dõi.  Nếu công cuộc Cách Mạng Khoa Học của thế kỷ 16 làm người Âu chú ý hơn vào lý trí, phát triển thế kỷ Voltaire làm họ đưa lý trí lên làm đầu.  

Vì lý trí quan trọng hơn truyền thống xã hội hay đức tin tôn giáo, Voltaire không ngại ngùng dựng nên những cảnh châm biếm xã hội còn nhiều oan trái bất công. Đúng vậy, khi lên tầu qua Nam Mỹ, Candide cùng người yêu Cunégonde được nghe câu chuyện của bà già người hầu cô. 

Hóa ra, bà già vốn là con gái bất hợp pháp của Giáo Hoàng Urban Đệ Thập và Công Chúa xứ Palestrina.  (Trong lịch sử không có đức giáo hoàng tên này, mà Voltaire bịa ra cho truyện.  Nhưng nói về giáo hoàng có con thì ngày xưa có một số giám mục và hồng y có con riêng, thường là lúc trước khi lên chức giáo hoàng.)  Khi mười bốn tuổi, bà rất đẹp và gặp chàng hoàng tử xứ khác.  Hai người yêu nhau tha thiết, nhưng có người con gái khác ghen và dùng dao đâm hoàng tử chết.  Bà và mẹ lên tầu đi đám tang chàng, nhưng gặp một tầu hải tặc bắt ngừng, các thủy thủ giáo hoàng không dám chống cự lại.  Bọn hải tặc lấy đồ quý giá trên tầu và hãm hiếp các phụ nữ, kể cả bà và mẹ bà. Sau đó, bà may mắn được một người cứu, nhưng người đó lại bán bà cho một hoàng tử xứ Bắc Phi.  Xứ Bắc Phi lại có bịnh tả, giết bao người kể cả hoàng tử. Bà lại bị người khác bắt, bán cho người này rồi lại người kia, rồi vào tay một sĩ quan Hồi Giáo.  Sĩ quan này đấu với quân đội Nga rồi thua, nhưng vì thiếu đồ ăn, lính Nga xẻo một bên mông của mấy người phụ nữ để nấu ăn, kể cả mông bà.  

Nghĩa là xưa bà đẹp đến đâu, nhưng trong một thời gian ngắn sắc bà bị tàn phá mà thân thể còn mất một mông.  Sau đó, quân Nga mang bà và các phụ nữ khác về nước họ làm đầy tớ. Đời đưa đẩy đến bao năm sau bà gặp Cunégonde và làm tớ cho cô.  Bà nói là có lúc cảm thấy cay đắng cuộc đời, nhưng bà không thể tự tử được vì sao đi nữa, bà vẫn “còn yêu đời.” Bà không hiểu tại sao mà cuộc đời có nhiều ghê sợ, vậy mà vẫn bám theo không bỏ được.  Bà không sống theo lý thuyết nên cảm được điều kỳ lạ mà chắc nhiều người Việt chúng ta, sống qua nhiều đau khổ đổi đời từ chiến tranh qua hậu chiến, có thể cảm được. 

Câu chuyện bà già vừa lạ lùng, vừa hài hước, vừa đả kích chiến tranh cũng như bất công đàn áp phụ nữ từ những người có quyền chức.  Câu chuyện bà già làm Candide rất ngạc nhiên, và anh càng thấy không ổn cho lý thuyết sống lạc quan. Kỳ trước, chúng ta thấy anh rất sầu khi ông thầy Pangloss bị hành hình tại Lisbon. Nhưng anh còn nhìn đời trong lối lạc quan. Câu chuyện bà già chưa làm anh mất lạc quan, nhưng lung lay thêm đôi chút. 

Chốn qua Nam Mỹ

Tầu tới thủ đô Á Canh Đình, mới xuống chưa lâu, cô Cunégonde có người chú ý: ông quan thành.  Ông này kiếm cách lôi Candide đi nơi khác để ông tán tỉnh cô.  Rồi bỗng nhiên lính Bồ vào thủ đô đi kiếm Candide. Thì ra họ khám phá anh là thủ phạm giết người, lên tầu đuổi qua bên Nam Mỹ.  Bà già khuyên anh nên bỏ trốn, còn bà và cô Cunégonde ở lại lấy ông quan cho yên.  Candide và Cunégonde đồng ý với bà.  

Lúc rời châu Âu, Candide được anh hầu mới tên Cacambo, người nửa gốc Âu nửa gốc thổ dân da đỏ châu Mỹ. Hao hao như bà già, anh là người không lạc quan cũng không bi quan, mà sống tùy cơ ứng biến.  Nhưng anh còn hơn bà là không có tính toán cho mình.  Anh còn có nhiều kinh nghiệm đời: lúc làm cho nhà thờ, lúc làm thầy tu, lúc là thủy thủ, lúc là lính chiến, lúc làm thương mại. Ý Voltaire là Candide còn ngây thơ nên cần ảnh hưởng của một người lớn tuổi hơn và nhiều mùi đời hơn.  Chắc chúng ta cũng đồng ý với lối nhìn này, là phải có người tin cẩn mới giúp thay đổi to lớn. 

Candide bỏ trốn với Cacambo đến nước Paraguay.  Nếu ông quan thành bên Á Căn Đình thể hiện một lần nữa cho thối nát của chính trị và chính quyền lối Âu, thì Paraguay hoang dã hơn, ít người hơn, dễ trốn lính Bồ hơn.  Nhưng lúc đó cũng có đánh nhau, nên hai người gia nhập quân đội lãnh đạo bởi một nhóm tu sĩ dòng Tên.  Họ gặp một đại tá, ông này dẫn họ vào tu viện dòng.  Khi vào mới thấy là ông đại tá, cũng là tu sĩ, là con trai ông Bá Tước mà ai cũng tưởng bị lính Phổ giết rồi.  Hóa ra, bố mẹ bị giết thật, nhưng cũng như ông thầy Pangloss và cô em Cunégonde, anh bị đâm nhưng không chết.  Có một tu sĩ dòng Tên đến rắc nước thánh cho người chết, thấy anh còn thở nên cứu sống.  Sau đó anh gia nhập dòng rồi qua Nam Mỹ.

Cuộc sum họp mừng vui, nhưng như nhiều chuyện khác trong truyện, thay đổi rất nhanh.  Là vì khi cha chết, con trai lớn có chức bá tước nên có quyền với em gái mình.  Vì còn yêu Cunégonde tha thiết, Candide xin phép anh mai mốt lấy cô ta.  Nhưng anh trai còn đầu óc bảo thủ không chịu, còn tát Candide một cái.  Bực quá, Candide cầm kiếm gần đó đâm anh ta một cái.  Đó là người thứ ba con người hiền lang Candide đâm chết.  Mà tất cả đều là vì tình yêu cho Cunégonde.  

Candide và Cacambo bỏ trốn nữa.  Họ bỏ xứ Paraguay đến một xứ lạ thường, nơi có phụ nữ và khỉ yêu nhau, nơi có nhóm thổ dân ăn thịt người. Nhưng họ chỉ ăn các tu sĩ dòng Tên thôi. Lúc đầu, họ tưởng Candide là tu sĩ dòng nên muốn nướng anh.  Nhưng may mắn Cacambo dùng miệng lưỡi thuyết phục là anh không phải tu sĩ, nên họ tha cho. 

Voltaire có hai mục đích khi dựng ra xứ sở này trong câu chuyện. Thứ nhất, ông có ý phê bình châu Âu mang quân đội cũng như tôn giáo đến châu Mỹ bóc lột người bản xứ đến nỗi làm cho họ ghét ngay cả các tu sĩ dòng Tên.  Thứ hai, và chắc là điều quan trọng hơn, ông cũng có ý phê bình lối nhìn con người trong trạng thái tự nhiên của Rousseau.  Như ta thấy trong bài viết về Luận Về Bất Bình Đẳng, Rousseau coi trạng thái tự nhiên là lúc con người tự do và bình đẳng nhất.  Ngược lại, Voltaire coi trạng thái tự nhiên là lúc lý trí con người còn kém, nên ông diễn tả lối sống còn ăn thịt người của thổ dân.   

Đến xứ Eldorado 

Nhưng ngược lại, Nam Mỹ cũng là nơi mà Candide thấy được chốn đẹp nhất trong đời.  Số là khi anh và Cacambo đi tiếp, hai người đến một xứ yên bình và bình đẳng không đâu có. 

Sau khi rời xứ sở ăn thịt người, hai con ngựa của Candide và Cacambo chết, rồi hai anh hết luôn thực phẩm.  Kiếm thấy cái thuyền, hai anh đi sông đến một làng nọ, lạ lùng là đường xá thay vì sỏi đá thì lại đầy kim cương, hồng ngọc, và các loại đá quý.  Hai anh đến khách sạn to lớn, sang trọng, mà còn miễn phí.  Hỏi ra, hai anh mới biết là đó là một vương quốc có tên Eldorado.

Vương quốc này dù có vua, nhưng không phải là người cai trị như bên châu Âu. Khi hai anh vào gặp vua, Candide thấy lính coi điện có cả phụ nữ, nghĩa là nam nữ bình quyền chứ không nam áp bức nữ như ở châu Âu hay Á Căn Đình.  Khi vua gặp Candide và Cacambo, ông ta ôm hai anh như hai bên bằng nhau chứ không thể hiện giai cấp. Họ ăn uống cùng bàn, nói chuyện thảo luận thoải mái.  Thì ra vương quốc này không có toà án hay tù vì không ai phạm tội hết.  Người dân thì học hỏi triết lý và khoa học, và họ chú trọng nhất là sáng tạo chứ không ngồi yên.

Candide thấy rằng vương quốc này mới là nơi tốt nhất trên thế gian. Nghĩa là anh công nhận rằng suy tưởng và niềm tin vào lạc quan của mình từ trước tới nay say lầm.  Các xã hội anh đã qua có nhiều bất công xấu xí, không cái nào sánh bằng Eldorado.  

Tới đây chắc ai cũng nghĩ: tốt đẹp, chắc câu chuyện chấm dứt.  Xin thưa là không, vì nếu kết thúc nơi đây không được vì thế gian này không có xứ nào như Eldorado.  Candide ở Eldorado một thời gian, nhưng tâm hồn anh vẫn nhớ thương nao nức về Cunégonde. Dù xung sướng, anh không quên được nàng; sao đi nữa, nàng là người đầu tiên và người duy nhất anh yêu.  Anh mất nàng lần đầu lắm buồn, mà sau khi đoàn tụ chỉ được thời gian ngắn lại bị chia ly.  Chàng trai trẻ có nhiều tìnt ái và luyến ái, sống trong xung sướng vật chất mà thiếu người mình yêu thì không thể nào mãn nguyện.  Thêm nữa, cuộc sống chung quanh vàng bạc châu báu làm anh nổi lòng tham, muốn trở lại châu Âu với một mớ tài sản to lớn. 

Khi vua vương quốc nghe ước vọng anh, ông nói là anh không nên đi, nhưng ông cũng không cản anh mà còn giúp anh làm một vật cụ để mang vàng bạc đá quý đi.  Candide và Cacambo dùng hơn một trăm con cừu mang của quý lên đường.  Khổ nỗi là khi đến bến tầu xứ Surinam, anh bị một thương gia chủ tầu gạt, cho gần hết cừu lên tầu rồi hắn nhổ neo mà không cho hai anh lên.  Rồi Candide còn bị quan viên hải cảng gốc Hòa Lan phạt vì gây ồn ào nơi công cộng.  Có lúc lên lại có lúc xuống, nhưng cũng vì anh bỏ Eldorado đi. Cũng may là anh còn hai con cừu, nên còn một số vàng bạc châu báu.  

Candide nói Cacambo đi trước để kiếm Cunégonde, rồi anh kiếm một người đầy tớ khác.  Anh hỏi một đám người gần tầu, “Ai là người sầu nhất ở đây vậy? Tôi sẽ mướn.”  Cuối cùng anh mướn một học giả, dù người nhiều hiểu biết nhưng lại nhiều chuyện sầu đời. Anh này tên Martin, anh bị vợ lấy tiền bỏ đi, bị con trai đập anh, bị con gái ruồng rẫy luôn.  Nghĩa là người bất hạnh.  Vì những chuyện này, anh sống theo lý thuyết ngược hẳn với Pangloss: bi quan chứ không phải lạc quan.  Gặp gỡ anh cũng là lúc chuyển hướng của Candide, vì tới lúc này thì chàng hoàn toàn từ bỏ triết lý lạc quan. Đây cũng là hết hồi hai.

Triết lý bi quan

Xin nhắc lại hồi trước kết thúc với Candide mướn anh Martin làm đầy tớ thay cho Cacambo mang một số tiền về châu Âu trước để kiếm Cunégonde và chuộc lại cô.  Trên đường ra tầu bên Surinam, Candide gặp một anh chàng nô lệ tàn tật, và chàng quyết chí không tin vào triết lý lạc quan nữa.  Vì hết tin, Candide cố ý kiếm người bất hạnh nhất, sầu nhất để tạm thời thế cho Cacambo. Tại bến tầu, anh thấy Martin là người hoàn hảo nhất trong vai này. Vợ Martin ruồng rẫy anh và lấy hết tài sản. Con trai ghét cha còn đánh ông nữa.  Con gái thì bỏ ông đi hoang với một thằng con trai người Bồ. Rồi Martin cũng là người có học, nên có hợp nói chuyện triết lý với Candide.

Trên tầu về châu Âu, Martin giảng nhiều bài cho Candide rằng bi quan là triết lý đúng. Anh cho là Thiên Chúa có tạo ra thế gian, nhưng xong rồi ngài để nó tự nhiên chứ không nhúng tay giúp ai hết.  Candide thấy triết lý bi quan của Martin có điều thực tế hơn triết lý lạc quan của Pangloss. Nhưng anh cũng không đồng ý với Martin vì ông học giả này cực đoan quá, không khác Pangloss. 

Khi gần tới châu Âu, người trên tầu thấy một trận chiến thủy quân giữa một tầu Pháp và một tầu Tây Ban Nha. Tức là Voltaire chỉ trích người Âu gây chiến không phải chỉ trên đất liền mà còn xẩy ra trên biển.  Trong trận chiến hai bên, một tầu khác bị bắn và chìm xuống biển, chết hết thuyền trưởng cũng như thủy thủ.  Rồi Candide thấy một con cừu bơi trên biển. Anh cứu được nó, và nhận ra đó là một trong một trăm cừu mà hắn thuyền trưởng người Hòa Lan ăn cắp của anh. Anh nói với Martin là quả báo thằng ăn cắp.  Nhưng Martin nói lại trong triết lý bi quan là hắn chết thì đúng, nhưng những người thủy thủ trên tầu hắn thì sao.  “Chúa có phạt nó,” Martin nói, “thì Quỷ Sứ hại mọi người khác.”  Nghĩa là triết lý bi quan có ứng dụng khi giải thích sự kiện trong đời.

Tầu đến nước Pháp, và còn rất nhiều vàng bạc nên Candide mua xe ngựa để tiện đường chu du. Nhưng cuộc hành trình bên Pháp không được tốt đẹp vì anh bị hết người này lợi dụng rồi người khác lừa gạt. Là vì họ thấy anh có tiền.  Khi anh hơi bịnh, có hai bác sĩ liền đến chữa, nhưng hai hắn giã vờ chữa bịnh để kiếm tiền, làm anh không lành mà còn bịnh hơn.  Khi chơi bài, anh lúc nào cũng thua vì chủ sòng lừa bài anh.  Rồi có một bà công tước dụ anh đến nhà bà ăn tối.  Bà tán tỉnh anh, rồi sau đó lấy mất mấy cái nhẫn kim cương.  Cuối cùng, một linh mục biết được anh còn nhớ nhung Cunégonde, ông viết giả lá thư nói là nàng đang ở Ba Lê.  Candide đến địa chỉ trong thư, nhưng bị linh mục giàn cảnh gắn tội mang cảnh sát đến bắt anh và Martin.  Candide phải bỏ tiền và kim cương ra hối lộ để họ thả, rồi hai người lên tầu qua nước Anh.

Đi qua bên Ý

Nhưng trên tầu anh đổi ý vì anh thấy Anh Quốc cũng có vấn đề của nó.  Anh và Martin trở lại lục địa qua bên Ý.  Hai người đến thành phố Venice, nhưng không thấy tin tức gì về Cunégonde hay Cacambo đâu hết.  Candide bắt đầu chán nản, bắt đầu hướng về triết lý bi quan của Martin.  Còn Martin thì đinh ninh rằng Cacambo lấy vàng bạc Candide bỏ trốn rồi chứ không đi kiếm Cunégonde gì hết. 

Nhưng tới đây thì chắc ai cũng đoán được là câu chuyện thể nào cũng chuyển hướng hay đổi tình tiết nhanh.  Đúng thế, bỗng nhiên Candide đi bộ ngoài đường thấy một người quen.  Nhưng không phải người yêu hay đầy tớ, mà là cô hầu hồi ở lâu đài ông bác: cô Paquette, người tình tự với ông thày Pangloss.  Số là cô cũng không chết trong vụ lính Phổ phá lâu đài, nhưng đời cô cũng chơi vơi, làm thiếp một ông bác sĩ, rồi thiếp một ông chánh án, bây giờ phải làm điếm để kiếm ăn. Cô đang cặp với một anh tu sĩ trong dòng, anh bị gia đình bắt vào dòng để mọi tài sản vào ông anh của anh.  Candide họ chút tiền rồi họ chào nhau đi.

Việc xuất hiện của nhân vật phụ Paquette là chuyện nhỏ thôi, nhưng cũng đi theo khuyên hướng đả kích và châm biếm xã hội châu Âu của Voltaire.  Cũng như Cunégonde và bà già đầy tớ, Paquette là nạn nhân của giai cấp giầu có, quyền hành, và gia trưởng trong xã hội.  Cũng như hai phụ nữ trên, cô bị đàn ông đàn áp.  Cũng như họ, cuộc đời cô ít được tự chủ mà bị cuốn theo quyền lực kinh tế cũng như chính trị thiên người giàu có và quyền năng.  Ngay cả anh thầy tu, dù không gian truân như Paquette, cũng nạn nhân trong gia đình giầu có.  Voltaire phê phán văn hóa châu Âu bảo thủ và thiếu tiến bộ, dìm giá trị con người xuống, nhất là phụ nữ.

Qua câu chuyện ở Pháp, Voltaire cũng châm biếm những thành phần cấp cao nhưng bất lương tâm và lạm dụng người khác.  Từ hai ông bác sĩ đến bà công tước cũng như ông linh mục, nước Pháp không thiếu người bất tâm, có vị trị cao trong xã hội nhưng cũng dùng xã hội làm thêm bất công.  Voltaire cũng dùng Eldorado để so sánh với châu Âu.  Khi ăn tối ở Pháp, chẳng hạn, người ta theo phong tục kì kèo mầu mè, còn khi nói chuyện thì toàn chuyện nhẳm nhí, mắch lẻo. Còn bên Eldorado thì ăn uống vui vẻ, nói chuyện sâu sắc.  Voltaire vẽ lên một Eldorado hoàn hảo không phải là vì có vương quốc đó, mà vì ông coi văn hóa truyền thống của châu Âu quá nhiều tai hại.

Chỉ trích của ông thể hiện thêm trong chương tới ở Venice, khi Candide gặp một bá tước người Ý và đến nhà ông chơi.  Ông bá tước khá giầu có, và có thu thập nhiều sách vở và tranh vẽ giá trị rất cao. Nhưng ông không có cảm giác lý thú gì về sách vở và hội họa.  Là  người có vật giá trị, nhưng ông không những chán việc làm chủ mà còn cho là vật chẳng còn gì quý.  Voltaire dường như muốn nói là văn hóa châu Âu bị bế tắc vì coi trọng cổ điển chứ không đi vào tương lai, khác với dân chúng ở Eldorado coi trọng khoa học và luôn sáng chế chứ không thỏa mãn với hiểu biết mà dừng lại.  Ông bá tước phê bình văn học nghệ thuật xưa, chắc ông vui hơn nếu sống ở Eldorado thay vì Venice.

Rồi Candide cũng rời Venice. Lý do là có hôm ông vào quán ăn, ngồi chung với sáu người đàn ông khác. Nói chuyện mới biết sáu người này ngày xưa đều là vua chúa sáu nơi khác nhau, nhưng rồi vì lý do này kia mất chức cũng như tài sản.  Candide nghe chuyện thông cảm, còn biếu tiền đến một ông.  Anh cũng gặp lại Cacambo trong quán, mới biết là anh đầy tớ có thấy Cunégonde ở Thổ Nhĩ Kỳ, tại thành phố Constantinople (tức Istanbul bây giờ). 

Kết thúc ở Thổ Nhĩ Kỳ

Thổ Nhĩ Kỳ là nơi hơi lạ, không hẳn ở châu Âu mà cũng không hẳn châu Á.  Nhưng câu chuyện kết thúc ở đây cũng đúng, vì Voltaire châm biếm châu Âu quá, làm chúng ta cảm thấy Candide khó ổn nếu cứ sống ở đó.

Trên đường qua Thổ với Cacambo và Martin, Candide gặp hai người đàn ông nô lệ. Hóa ra họ là ông Pangloss và anh con trái ông Bá Tước.  Candide bỏ tiền chuộc họ, mới biết là Pangloss còn sống Lisbon là vì người hành hình ở Lisbon không có kinh nghiệm, làm giây treo cổ lỏng quá không giết được ông. Còn ông anh Cunégonde thì tha thứ cho Candide đâm ông, vì sao đi nữa ông không chết.

Năm người kiếm được Cunégonde và bà già hầu cô, rồi Candide chuộc tiền họ.  Nhưng thời gian làm hoang phế sắc đẹp Cunégonde, bây giờ nhìn già và xấu xí.  Bề ngoài cô làm Candide chưng hửng.  Nhưng anh ngày xưa đã hứa sẽ lấy cô, nên giữ lời hứa và cước cô làm vợ.  Anh mua một nông trại nhỏ để mọi người sống.  Một thời gian sau, Paquette và anh bồ dòng tu hết tiền, kiếm đường qua Thổ Nhĩ Kỳ nhờ Candide giúp.  Anh cũng họ vào nông trại sống chung.

Ngược lại, ông anh cô chức nào tật nấy, không cho Candide lấy em gái mình.  Dù Pangloss có nói là anh không có quyền, anh chẳng chịu mà cứ khăng khăng cho là mình có quyền.  Candide mang anh trả lại chủ cũ.  Việc Candide từ ông Bá Tước con có hai giá trị. Thứ nhất, anh cưới Cunégonde không bị anh cô lải nhải.  Thứ hai, ông Bá Tước con thể hiện tầng lớp quan lại còn lối nhìn trưởng giả và bảo thủ, trong khi Candide bây giờ có một cộng đồng nho nhỏ bình đẳng nhau hơn. 

Nhưng không phải có bình đẳng mà không có chuyện. Sao đi nữa, đây không phải là vương quốc Eldorado.  Họ vẫn cãi nhau về triết lý, nhất là Pangloss và Martin, và cả Candide và những người khác.  Candide quyết định đi kiếm một giáo sĩ Hồi Giáo để hỏi triết lý nào đúng triết lý nào sai (vì Hồi Giáo là tín ngưỡng lớn nhất ở Thổ Nhĩ Kỳ).   Nhưng khi gõ cửa nhà một giáo sĩ, ông ta nói vắn tắt là đừng nói gì – ý là bàn cãi lý thuyết không dẫn tới đâu – rồi ông đóng cửa lại. 

Trên đường về, mọi người đi ngang một nông trại nho nhỏ dễ thương.  Thấy ông chủ đứng hứng mát dưới một cây cam, Pangloss hỏi ông có biết giáo sĩ Hồi Giáo là ai không.    Ông chủ nông trại trả lời là ông không biết vì chuyện đó, vì ông không theo dõi các nhân vật qua trọng cũng như những chuyện chính trị ở thành Constantinople quan trọng. Ông nói, “Tôi chỉ vui khi mang cây trái tôi trồng đến thành phố bán.”  Rồi ông mời mọi người vào nhà xơi nước.

Ông có hai gái và hai trai. Khi khách vào nhà, tất cả các con ông mang đồ ăn ra mời họ. Có cà rem. Có kẹo bánh mùi vị cam, chanh, dứa, và hồ trăn. Rồi cà phê mocha nguyên chất. “Chắc nông trại ông nhiều đất,” Candide hỏi.  Ông chủ trại trả lời, “Chỉ có hai mươi mẫu thôi. Tôi và các con làm. Công việc giúp chúng tôi tránh ba thứ tệ hại: chán chường, thói xấu, và thiếu thốn kinh tế.”

Lời ông chủ trại đơn giản nhưng làm Candide suy nghĩ rất nhiều.  Anh thấy lối sống và suy nghĩ của ông chủ nông trại đơn giản. Ông khác hẳn với sáu ông vua trong quán ăn ở Venice hồi trước, vì sáu người dù thất thế nhưng vẫn còn phong kiến chứ không hợp thời.  Candide nói chuyện với Pangloss, Martin, và mọi người về đơn giản hóa cuộc sống của cộng đồng bé nhỏ của họ. 

Ta phải vun sới vườn ta

Cuộc sống họ từ đó biến đổi, vì mỗi người phát triển tài năng bé nhỏ nhưng quan trọng của mình.  Cunégonde nấu ăn ngon, Paquette may quần áo, bà già giặt đồ cho mọi người, anh thầy dòng xuất là thợ mộc, v.v… Pangloss và Martin vẫn tranh cãi về triết lý, nhưng điều đó không còn quan trọng như trước.  Candide kết thúc câu chuyện với câu nói nổi tiếng.  Tiếng Pháp: Il faut cultivar notre jardin. Tiếng Anh: We must cultivate our own garden.  Dịch ra tiếng Việt: Ta phải vun sới vườn ta.

Tóm lại, cuộc đời phiêu lưu của chàng trai Candide đi từ triết lý lạc quan đến triết lý bi quan rồi đến lối nhìn vào cuộc sống căn bản và đơn giản hơn.  Ý tưởng này nhỏ bé hơn triết lý, nhưng cũng quan trọng hơn.  Đến cuối chuyện, dù Candide mất đi tình ái và luyến ái cho Cunégonde vì cô nhìn già và xấu xí, anh vẫn chấp nhận lấy cô. Quan trọng hơn nữa là anh chấp nhận cuộc sống nhỏ bé và đơn giản theo ý tưởng ta vun sới vườn ta.  Ý tưởng này có đơn giản, những người thấp bé như ông chủ nông trại người Thổ hay anh Cacamb biết sớm.  Nhưng với người có học như Pangloss, Martin, hay Candide, thì lại cần nhiều thời gian, nhiều cơn sống gió hơn, mới nắm được nó.