Vì văn chương có nhiều đọc giả hơn thần học hay triết học, tác phẩm tiểu thuyết của Fyodor Dostoevsky có nhiều người đọc hơn các tác phẩm của Kierkegaard hay Nietzsche.  Nhất là tiểu thuyết Anh Em Nhà Karamazov: tác phẩm cuối cùng của nhà văn người Nga, được nhiều nhà phê bình văn học và văn chương coi là một trong những tuyệt tác văn chương thế giới. 

Không những tiểu thuyết này thường được dậy tại học đường ở Hoa Kỳ, mà còn nhiều người mua đọc bên ngoài.  Vì lối văn của Dostoevsky có nhiều phức tạp, nên lâu lâu vẫn có một bản dịch ra tiếng Anh mới.  Còn nói về đọc thì tác phẩm khá dài, thường là các ấn bản tiếng Anh trên dưới một ngàn trang.  Trong lớp học kinh điển mà người viết dậy, học sinh tốn chừng sáu tuần mới đọc xong. 

Tại sao dài vậy?  Một lý do là Dostoevesky và một số tiểu thuyết gia người Âu Châu trong thế kỷ thứ 19 viết chuyện trên báo hoặc tạp chí.  Nên họ viết nhiều bài, nhiều chương.  Có thể nói thí dụ quen thuộc nhất trong thế kỷ đó là Charles Dickens, tác giả người Anh.  Ông chuyên sống về viết chuyện cho báo tại Luân Đôn, rồi được một số báo nơi khác in lại nên có nhiều độc giả.  Sau đó rồi ông mới gôm lại in thành sách.  Đến thế kỷ 20 thì một số nhà văn tại Châu Á cũng kiếm sống lối này.  Nổi tiếng nhất chắc là Kim Dung, tác giả của những chuyện kiếm hiệp như Anh Hùng Xạ Điêu, Thần Điêu Đại Hiệp, và Lộc Đỉnh Ký.  Ông đang những chuyện này trên một số nhật báo tại Hồng Kông từ thập niên 1950 đến đầu thập niên 1970. Và như các độc giả lớn lên tại Sài Gòn và các tỉnh miền Nam thời đó biết, nhiều chuyện lại được dịch qua tiếng Việt để in trên báo rồi sau đó in thành sách. 

Về phần Dostoevsky thì ông in tiểu thuyết cuối cùng trên một tạp chí văn chương tại Moscow trong vòng hai năm.  Ông hợp tác với tạp chí này nhiều năm, trước đó có in bốn truyện khác.  Còn truyện này thì ra đời trong những năm 1879 và 1880.  Ông có dự định viết thêm một tiểu thuyết tiếp theo Anh Em Nhà Karamazov, nhưng bị bịnh qua đời năm 1881.  Cũng may là ông có soạn lại chút ít trước khi in ra sách. 

Còn chủ đề thì sao?  Tại sao tiểu thuyết này được coi là “hiện sinh”?  Một lý do lớn là cũng như Kierkegaard và Nietzsche, nhà văn Dostoevsky cho là đời sống hiện đại của con người và xã hội có nhiều vấn đề phức tạp.  Làm sao có thể sống ra hồn ra người trong thế giới càng ngày càng hiện đại hóa một bên, nhưng bên kia dễ làm con người mất đi nhân phẩm hơn trước.  Với ông, hiện đại mang đến tiến bộ trong kỹ thuật khoa học, nhưng cũng tăng thêm cô đơn đến xã hội cũng như tâm hồn con người. 

Thêm một phần nữa là tư tưởng Dostoevsky bảo thủ hơn Kierkegaard và Nietzsche.  Không như Nietzsche vô thần, ông là tín đồ Thiên Chúa Giáo, theo giáo hội Thống Chính Giáo Nga.  Nên ông không tin là con người phải từ bỏ tôn giáo rồi tự mình xây giá trị luân lý.   Nhưng ông cũng không hẳn giống Kierkegaard, người nhấn mạnh cá nhântrên hết mọi sự. Dostoevsky coi trọng cá nhân, nhưng ông không cho cá nhân ra vòng xã hội.  Ông trung hòa hơn Kierkegaard về nhìn nhận liên hệ cá nhân với xã hội hiện đại.  Kierkegaard khinh khi giáo hội Lutheran của Đan Mạnh. Ông cho rằng giáo hội ở nước ông quá chú trọng về bề ngoài, làm hư đi sức lực của người Ki Tô Hữu.  Ngược lại, Dostoevsky cho giáo hội Thống Chính Giáo là niềm hy vọng cải tiến cho xã hội nước Nga, lúc đó có nhiều hộn loạn khi chạm trán với văn hóa của thời kỳ hiện đại.

Cha và con trai bà vợ trước

Câu chuyện gia đình Karamazov xẩy ra tại một thị trấn nhỏ thời Nga Hoàng.  Dù tác phẩm dài ngàn trang, phần lớn câu chuyện xẩy ra trong vào bốn ngày đêm, với gần hết của phần còn lại trong một tuần sau đó hai tháng.  Dostoevsky chia truyện ra bốn phần và một đoạn cuối.  Mỗi phần có ba tập, tức là tổng cộng mười hai tập  Rồi trong mỗi tập có từ ba đến mười bốn chương.  Nghĩa là có tập ngắn cũng có tập dài. Còn đoạn cuối kết thục chuyện thì có ba chương.

Trong mười hai tập, thì tập đầu cho người đọc biết về lai lịch gia đình Karamazov. Ông bố là Fyodor Karamazov, lúc đó tuổi ngũ tuần.  Ông là người có nhiều thói xấu như mê gái, vừa ham tiền vừa xài hoang phí, không những chẳng làm bổn phận người cha mà có lúc còn không nhớ đứa con này là từ bà vợ nào ra.  Khi còn trẻ, ông hay khúm núm nịnh hót khi nói chuyện với người có địa vị cao hơn.  Nhưng nhờ có được chút vốn khi lấy vợ từ một gia đình khá giả, rồi có khiếu kinh doanh địa ốc, nên bây giờ, ông làm chủ nhiều đất đai trong quận và rủng rỉnh tiền bạc. Khi nói chuyện ông hay ồn ào bất lịch sự, chứ không khúm núm như xưa nữa. Nói chung, ông bố gia đình Karamazov là người vô trách nhiệm và vô phẩm chất. 

Người con lớn của Fyodor là anh chàng Dmitri (có bản dịch ghi là Dmitry).  Anh là con một của bà vợ đầu tiên của ông bố.  Khổ nỗi là mẹ anh không chịu nổi tính tình bố anh, nên bà bỏ cả chồng lẫn con, đi theo một người sinh viên sống nơi khác, sau này bà chết sớm.  Còn ông bố thì không chịu nuôi con ở nhà, nên thằng bé Dmitri phải sống với họ hàng bên mẹ, lúc ở nhà người này, lúc ở nhà người kia.  Khi lớn lên, anh vào quân đội Nga, làm sĩ quan. 

Tính tình Dmitri cũng có cái giống ông bố là sống về xác thịt.  Anh hay theo đuổi phụ nữ cũng như thường rượu chè.  Vì mẹ anh xuất thân từ gia đình có nhiều của cải, lúc bé anh thường nghe họ hàng bên mẹ nói là trong tương lai ông bố anh sẽ chia đất đai của cải cho anh.  Nhưng ông bố thì lại không rõ ràng, lúc úp lúc mở, nên gây cho anh nhiều bực bội. 

Lúc trong quân đội, Dmitri mê người con lớn của một sĩ quan lớn tuổi và chức vụ trên anh.  Ông này có hai con gái, nhưng Dmitri chỉ gặp cô lớn.  Anh muốn dụ dỗ cô từ lâu, nên khi biết ông bố đang túng tiền, anh đánh lời với cô là anh có thể giúp nếu cô theo anh.  Nhưng cô không chịu. Ngược lại, người em cô tên là Katerina đến kiếm anh.  Cô này còn đẹp hơn chị, nhưng khi gặp cô thì Dmitri lại cảm thấy mình quá đáng. Nên anh chỉ đưa cô tiền rồi nói cô đi.  Sau đó thì cô được một bà cô để lại tài sản, nên không những trả lại Dmitri tiền mà còn cho anh mượn lúc túng thiếu.  Tới lúc này thì tới phần cô mê anh, cô quả quyết là mục địch của cô là đi giúp anh làm con người chân chính.  Dù Dmitri không ham muốn cô cho lắm, anh lại chịu đính hôn với cô.  Nghĩa là anh sống trong trạng thái đa cảm, ào ạt cảm tưởng.

Ngoài ra, Dmitri về quê để chống trọi với ông bố về vấn đề tiền bạc. Mới về, anh gặp một cô gái khác tên Grushenka và mê cô ngay lập tức.  Nhưng ông bố anh cũng theo đuổi cô này, làm anh bực bội thêm.  Vì thế, liên hệ hai cha con càng tệ trước khi câu chuyện chính thức bắt đầu.

Hai đứa con của bà vợ sau

Sau khi mẹ Dmitri qua đời, ông bố cua một cô phụ nữ tính tình hiền dịu, cha mẹ đã chết sống với một người họ hàng đỡ đầu, cũng là người có trách nhiệm về cô trên luật pháp nên được gọi là người bảo hộ.  Ông Fydor dụ được cô này làm vợ, và cô đẻ ra hai người con: anh chàng Ivan và em trai là Alyosha.  Nhưng khổ nỗi là ông chồng tính nào tật đấy, không những mê sác thịt mà còn mang gái về nhà làm cô khốn khổ tinh thần mà chết sớm. 

Sau khi vợ chết, ông Fyodor cũng chẳng ngó ngàng đến hai con mình, nên người đỡ đầu cô vợ mang Ivan và Alyosha về nuôi.  Được một thời gian ngắn thì người bảo hộ cũng qua đời.  Trước khi chết, người đỡ đầu cho mỗi anh một chút tiền để đi học.  Ivan thì học ở Moscow, khi đầu chuyện thì anh bắt đầu có tiếng về nghiên cứu thần học, và mới in một bài luật về thần học được giới trí thức Nga chú ý đến.  Vì Dmitri cũng từng sống trên Moscow, nên hai anh em cùng cha khác mẹ cũng thỉnh thoảng gặp nhau.  Ngoài ra, có lúc Dmitri nói Katerina đi gặp Ivan, tạo ra một chút tình cảm giữa hai người.  Nhưng Ivan không rõ rằng cho lắm với cô ta.  Còn Katerina thì có thấy chút sao xuyết với Ivan, nhưng cứ quả quyết là cô phải giúp Dmitri, nên cô không chịu bỏ đính hôn với anh mặc dù cô biết anh ta không yêu cô đâu.

Còn Alyosha thì vào tu viện dòng gần thị xã, làm chủng sinh trong đó vừa học vừa tu.  Vì sống xa hai ông anh nên anh không biết họ cho lắm, kể cả Ivan.  Khi đề chính câu chuyện bắt đầu, thì Dmitri cũng như Ivan trở về quê.  Dmitri trú tại khách sạn, còn Ivan ngủ tại nhà ông bố.  Mục đích của Ivan là gặp gỡ lại gia đình cũng như tham dự bàn cãi về tài sản giữa bố và ông anh trai Dmitri.  Còn Alyosha thì mời mọi người đến tu viện anh ở, gặp ông thầy dòng kỳ cựu là linh mục Zosima để làm trọng tài cũng như thẩm phát cho vụ tranh chấp cha con Dmitri. 

Ngoài ba đứa con chính thức, ông Fyodor còn có người con tư sinh tên là Smerdyakov.  Anh này là con  con trai một phụ nữ có tâm trí bất thường, nói chuyện như có lúc tỉnh lúc mơ.  Dân thị trấn đồn là có một đêm Fyodor đi chơi gặp mẹ anh, rỗi hiếp dâm bà.  Có người thì còn nói là Fyodor dụ dỗ bà lúc chè chén say sưa. 

Thực hư ra sao không rõ, nhưng khi đẻ ra Smerdyakov thì bà chết ngoài vườn gần nhà Fyodor. Tình cờ, ông quản gia của Fyodor thấy được thằng bé, nên ông mang về nhà.  Vì ông và vợ không có con, nên hai người nuôi nó trong nhà Fyodor luôn. Mà chủ nhà Fyodor cũng chịu cho ở, nên người dân thị trấn lại càng quả quyết là thằng bé là con ông.   Khổ nỗi là nó bị bịnh phong đòn gánh, nên thỉnh thoảng quằn quại đau đớn vì bịnh.  Khi nó lớn, ông Fyodor đưa nó lên Moscow học nghề nấu ăn một thời gian. Học xong, nó về lại quê, ở sau nhà ông và phục vụ nấu ăn hằng ngày cho chủ.

Bốn anh em Karamazov, bốn khía cạnh con người

Qua những nhân vật gia đình Karamazov, Dostoevsky cho chúng ta thấy những loại người khác nhau.  Hay nói đúng hơn, những khía cạnh khác nhau trong con người.

Như nói trên, Dmitri là biểu tượng cho khía cạnh cảm giác.  Anh say đắm nhục dục, và anh sống với ham muốn thân sác, theo con tim.  Những người như anh có nhiều nhiệt huyết, nhưng cũng hay bồng bộn, không suy nghĩ chín chắn nên gây ra đau khổ cho mình cũng như người khác.

Còn Ivan thì ngược lại anh mình, là người sống theo trí óc và theo lý luận.  Loại người này thì khô khan bên ngoài, ép chế con tim xuống để dùng lý mà thôi.  Có lúc họ đúng, nhưng cũng có lúc họ sai vì lý trí và lý luận không đủ cho nhận xét về đời sống.

Sau đó là Alyosha, người sống theo tâm linh.  Đối với Dostoevsky, đây là loại người cao quý nhất, cần thiết nhất cho xã hội thời hiện đại.  Alyosha tính tình điềm đạm, không nói nhiều như hai ông anh.  Anh lắng nghe hơn, rồi khi anh nói, lời lẽ thâm thúy hơn, đúng điệu hơn.  Dù không lớn lên với cha mẹ ruột, anh sống gần thầy tu Zosima nên cảm nghiệm được chân lý cuộc sống hơn. 

Ngoài ra, Smerdyakov là biểu tưởng cho sự điên cuồng con người.  Theo một giải thích, đứa con trai tật nguyền và vô giá thú này tượng trưng cho tội nguyên tổ trong giáo lý Ki Tô Giáo.  Nếu không được rửa tội, con người sẽ đi đến tối tăm: đó là số phận của Smerdyakov. 

Vào câu chuyện chính

Ngay từ chương đầu tác phẩm, người kể chuyện cho độc giả biết là câu chuyện dính dáng về án mạng của ông bố Fyodor.  Từ đầu chuyện đến lúc ông chết có ba ngày thôi, và câu chuyện bắt đầu với tranh cãi giữa ông và anh con trai cả Dmitri về tiền bạc cũng như ghen tuông.  Người con trai thứ ba là Alyosha đề nghị mọi người vào tu viện gần phố, gặp thầy tu là Cha Zosima để giúp giải quyết các vấn đề.  Hôm họ đến tu viện là ngày thứ nhất câu chuyện.

Tại tu viện, ông Fyodor tỏ tính diễu cợt như thường.  Lúc thì ông nói bóng nói gió chê chuyện này mĩa mai người kia, lúc thì ông bạch tuộng phê bình không kiêng nể. Nhất là với đứa con lớn khi anh đến trễ.  Nhưng cũng có lúc ông hạ mình xin lỗi trước các linh mục trong tu viện, kể cả Cha Zosima.  Anh Dmitri cũng la lại ông bố, cho ông là người vô trách nhiệm.  Hai bên cãi nhau, dù Cha Zosima và các cha dòng khác can thiệp. Kết cục buổi họp cũng không đến đâu, và mọi người đi về lòng vẫn như trước.

Chân lý hiện sinh theo Zosima

Nhưng điều quan trọng nhất của ngày đầu câu chuyện là linh mục già Zosimo, người có tiếng tăm trong vùng nên có nhiều dân chúng, nhất là phụ nữ, đến tu viện xin gặp để được an ủi hay khuyên răn.  Trong lúc chờ đợi Dmitri đến, Cha Zosima ra gặp các phụ nữ đó, nói chuyện với từng người, cầu nguyện cho họ và khuyên rủ họ.  Nghĩ là gia đình Karamazov chỉ là một trong nhiều người kiếm ông, mặc dù lý do của các phụ nữ không hẳn giống lý do bố con Karamazov.  Dù sao đi nữa, các tu viện thường tạo ra khung cảnh của chốn xa xôi trần thế một chút, để giúp tính đồ có cơ hội xem lại mình lại đời.  Trong chuyện này, khung cảnh tu viện là Chính Thống Giáo nước Nga.  Nhưng cảnh tượng cũng hao hao như tại tu viện Công Giáo, hay tại một chùa Phật Giáo ở Việt Nam, nhất là các chùa trên đồi trên núi, nơi mà tính đồ đến cầu nguyện hay gặp gỡ các cha dòng hay các sư hay thầy tăng lớn tuổi, có nhiều hiểu biết về con người. 

Lúc vào chuyện thì Cha Zosima yếu lắm rồi, và chỉ hai hôm sau là qua đời.  Cha vẫn đi đứng được, nhưng chậm hẳn hơn trước.  Tuy nhiên, tâm trí ông còn rõ, nên ông nghe rõ chuyện từng tính đồ trước khi cho họ lời khuyên.  Ngày xưa, ông lớn lên trong gia đình quý phái, không tin vào Thiên Chúa lúc đầu.  Nhưng ông có người anh trai bị bịnh chết lúc còn trẻ, và anh này tin Chúa và theo đạo trước khi chết.  Sau này, Zosima vào quân đội làm sĩ quan.  Hao hao như Dmitri, ông sống theo vật chất và cảm xúc hơn là tâm linh.  Ông còn yêu đắm đuối một phụ nữ đã có chồng.  Nhưng một vài chuyện sảy ra làm ông nhớ đến người anh quá cố, và ông chuyển hướng hoàn toàn, không làm sĩ quan nữa mà vào tu viện từ đó đến giờ.  Ý Dostoevsky đây là Zosima là người có kinh nghiệp sống sâu đậm, có thể hiểu được lòng dạ người khác.  Bây giờ là một trong những tu sĩ già nhất ở tu viện, ông có tiếng khôn ngoan và thánh thiện, nên nhiều người muốn gặp, cả nghèo lẫn giầu.

Đọc qua những đối thoại giữa Cha Zosima và các phụ nữ, cũng như giữa linh mục và gia đình Karamazov, độc giả thấy được lời khuyên của linh mục này thực ra là đơn giản chứ không phức tạp.  Ông khuyên họ nên tin vào Thiên Chúa và đừng sợ hãi.  Đây là một chủ đích của đường hướng hiện sinh Dostoevsky:  sợ hãi là bình thường, nhưng đừng để nó làm chủ mình mà kiên trì lên và dũng cảm lên chọi lại sợ hãi.  Trong thời đại tân kỳ, có nhiểu thay đổi đến khoa học, kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, con người không khó mà không sợ hãi.  Nỗi sợ hãi không những tổn thương tâm lý cá nhân, mà còn làm đời sống mất đi vươn lên, chỉ còn thụ động hoặc là, ngược lại, phản ứng cồng liệt chứ không chín chắn.  Con người thời hiện đại có thể sống lâu hơn trước, khỏe hơn trong thân thể, có nhiều giờ rảnh hơn trước, giầu vật chất hơn xưa.  Nhưng thời hiện đại cũng tạo ra nhiều nỗi sợ hãi đến cá nhân cũng như xã hội.  Ở đây, Dostoevsky có phê bình hao hao như Nietzsche, mặc dù hai ông khác biệt về nhiều thứ.  Nietzsche thì đề nghị độc giả ông đi theo lối Siêu Nhân – Superman hay Overman – để tạo ra giá trị luân lý mới.  Còn Dostoevsky thì là tín đồ Thiên Chúa Giáo, nên ông dùng nhân vật Zosima phát ngôn giải pháp đối chọi với vấn đề xã hội hiện đại.  Mà đứng đầu là nhìn nhận là đời sống hiện đại có nhiều sợ hãi, nên điểm đầu tiên là thay thế nó bằng can đảm và hùng dũng. 

Điểm thứ nhì mà Cha Zosima nhất mạnh là đừng nói dối.  Ý ông không phải chỉ là đừng nói dối với người khác, mà còn đừng nói dối với chính mình.  Thời hiện đại tạo ra nhiều biến chuyển xã hội kinh tế, con người dễ dối trá hơn là vì sống chung quanh nhiều người lạ.  Nhưng quan trọng hơn là họ cũng có nhiều lựa chọn về cuộc sống hơn những thời đại trước, nên cũng dễ dối trá hơn với nhau. 

Điểm thứ ba là yêu mến người.  Các dịch giả tiểu thuyết ra tiếng Anh thường dùng chữ “active love” cho chân lý này của nhân vật Zosima, ý là yêu thương nhân loại với nhiều sức sống và năng lực.  Cũng như hai điều trên, chân lý này rất ư đơn giản.  Nhưng ngược lại, chân lý khó hiểu hơn.  Sao đi nữa, đừng sợ hãi và đừng nói dối có chi tiết hơn, vì sợ hãi và nói dối có nghĩa rõ rằng.  Còn yêu mến người thì nghe có vẻ chung chung hơn, đại khái hơn.  Vậy là thế nào?

Để hiểu hơn về chân lý này, chúng ta chú trọng về nhân vật Alyosha, người con thứ ba của ông Fyodor.  Alyosha là người ôn tồn, con người hướng về phía linh hướng nhất trong gia đình Karamazov.  Anh không là người dối trá ai cả, và anh cũng ít lúc nào lo sợ gì.  Đặc biệt nhất là trong suốt tiểu thuyết ngàn trang, độc giả không thấy anh nói nhiều như cha anh, các anh anh, ngay cả một số nhân vật phụ khác.  Vì sao?  Vì Alyosha là người lắng nghe, nhất là khi anh nói chuyện với anh trai Dmitri hay Ivan.  Nhưng lắng nghe là biểu hiện tâm linh anh bên trong.  Vì anh theo Cha Zosima, anh tiếp thụ được chân lý của người tu sĩ già về yêu mến người.  Nên anh chú trọng về người khác hơn là về anh, và anh không phê bình họ như nhiều người tính tình thích phê bình người khác.  Qua Alyosha, Dostoevsky tạo ra điển hình lớn nhất của chân lý “hãy yêu mến người” trong tiểu thuyết Anh Em Nhà Karamazov

Alyosha vào trần thế

Nhưng ngược lại, Alyosha còn trẻ về tuổi tác cũng như kinh nghiệm đời.  Trong vai trò chủng sinh, anh sống trong tu viện đã mấy năm rồi.  Anh cứ nghĩ là đây nơi Chúa gọi mình.  Nên anh rất ngạc nhiên khi Cha Zosima gọi anh vào và bảo là anh nên rời tu viện mà vào xã hội bên ngoài.


Lúc Cha Zosima nói với anh điều này là cuối ngày thứ nhất trong truyện, sau khi cha và hai anh trai của anh rời tu viện về nhà.  Sáng hôm sau, anh rời tu viện đi vào thị trấn đến tối mới về lại.  Rồi ngày hôm sau cũng thế: sáng ra tu viện vào thị trấn, tối về lại ngủ.  Đi một ngày đàng, học một sàng khôn.  Alyosha đi hai ngày chứ không phải một. Nhưng vì gặp gỡ nhiều người trong 48 tiếng đồng hồ, anh biết thêm rất nhiều về xã hội hiện đại cũng như các vấn đề hiện đại.  

Trong ngày đầu, người đầu tiên anh gặp là Dmitri.  Ông anh trai kéo anh ngồi chơi cả buổi, tâm sự cho anh về quá khứ cũng như lỗi lầm, ước vọng.   Tới chiều thì anh ghé nhà ông bố, lúc ông ta và Ivan đang ăn cơm với Smerdyakov và người hầu phục vụ.  Xong rồi, anh đến nhà một bà chủ đất giầu có vì anh muốn gặp cô Katerina, đang ở trọ nhà bà.  Không những anh gặp Katerina, mà còn gặp cô Grushenka, người mà cả bố anh và anh trai Dmitri đang theo đuổi. Chưa hết.  Con gái bà chủ nhà tên Lise, có mười lăm mười sáu thôi nhưng đã mê anh từ lúc gặp anh tại tu viện, nên cô đưa Alyosha một lá thư tỏ tình.  Nghĩa là tình tiết câu chuyện đi rất nhanh, có rất nhiều chi tiết mà độc giả  cũng như Alyosha học được trong thời gian ngắn. 

Như nói trên, sáng hôm sau Alyosha trở lại thị trấn.  Lần này, anh ghé lại nhà ông bố lần nữa, gặp lại ông Fyodor nhưng không thay đổi gì được.  Rồi anh gặp một đám học sinh con trai ném đá đấu chọi một thằng nhóc.  Anh nhẩy vào can, nhưng thằng nhọc lại cắn tay anh rồi bỏ chạy.  Nhưng cũng vì thế anh có cơ hội nói chuyện với đám học sinh.  Sau đó, anh gặp lại Katerina cũng như cô bé Lise. Vì một vài hôm trước, ông anh Dmitri có to tiếng xúc phạm một đại úy nghèo trong thị xã, anh tìm nhà ông sĩ quan này xin lỗi.  Vì đó mà anh mới biết thằng nhóc cắn anh hồi sáng là con ông đại úy này, mà nó còn đang bịnh. Chưa hết.  Chiều đó anh có hẹn với ông anh Ivan, ha người gặp nhau ở một quán cơm, ngồi nói chuyện khá lâu.  Cuối cùng, anh trở về tu viện và biết được là Cha Zosima vừa chết. 

Dĩ nhiên câu chuyện có rất nhiều chi tiết trong những chương về 48 tiếng đồng hồ mà Alyosha “vào” trần thế.  Mục đính của Dostoevsky là cho chúng ta đi theo Alyosha “vào đời,” cho ta hiểu là Aloysha có hiểu chân lý nhưng cần có kinh nghiệm để biết được sứ mệnh đời mình là thế nào.  Cha Zosima biết anh mấy năm rồi, nhưng cũng có thể đến lúc Cha gặp gia đình anh trong ngày đầu tiên câu chuyện, Cha mới thấy rõ ràng hơn về giá trị của Alyosha. Nghĩa là Cha nhận rằng thế giới bên ngoài có nhiều hỗn loạn vì những người như bố anh, hai ông anh anh, và những người khác như hai cô Katerina và Grushenka.  Nên Cha kêu gọi anh rời tu viện mà vào thị trấn, để có thể mang yêu mến đến con người và xã hội đang cần thêm những người can đảm chứ không sợ hãi, thành thật chứ không dối gian, sống theo yêu mến chứ không hận thù, ghét bỏ.  Trong hai ngày vào thị trấn, Alyosha chưa rõ hẳn tại sao Cha Zosima nói anh đi ra.  Mà bây giờ Cha qua đời rồi. Chúng ta sẽ tiếp tục câu chuyện về Alyosha và các nhân vật khác trong số tới. 

Vì Cha Zosima có danh tiếng thánh thiệt, có nhiều người đến tu viện viếng xác sau hôm ngài qua đời.  Nhưng lạ một nỗi là xác ngài có mùi hôi rất nặng, làm họ thấy lạ lùng là sao người thánh thiện mới chết mà như vậy.   Ý của Fyodor Dostoevsky là Cha Zosima cũng là người trần thế thôi, và thánh thiện có trong linh hồn nhưng thân sác vẫn theo quy củ tự nhiên, có lúc bốc mùi mau sau khi chết.   Nhưng với giáo dân và các tu sĩ cũng như chủng sinh, mùi hôi làm họ hoang mang tinh thần. 

Nhất là Alyosha, người coi cha già như người cha thứ hai của mình.  Thật ra, vì ông cha ruột không gó gàng đến các con, Alyosha mang tình con đến hết cho Zosima, nên anh rất ư hoang mang tâm trí. Nhất là vì hai hôm trước, Cha Zosima có nói anh là nên rời tu viện vào trần thế xã hội mà sống.  Nên anh đi vào thị trấn một lần nữa. 

Hôm này Alyosha cũng gặp một số người như hôm trước.  Nhưng lần này có hai đối thoại được coi là quan trọng nhất trong tiểu thuyết.  Thứ nhất, Alyosha gặp ông anh Ivan vào buổi trưa.  Dù là anh em cùng cha lẫn mẹ, hai người không biết nhau cho lắm vì lớn nên tại hai nơi khác nhau.  Trong cuộc đối thoại này, Ivan kể câu chuyện anh viết về Chúa Giêsu trở lại trần thế trong thế kỷ thứ 15, đến một tỉnh tại Tây Ban Nha, nơi mà Giáo Hội Công Giáo hùng mạnh và có Tòa Án Dị Giáo – tiếng Anh là “the Inquisition” – đi bắt những người phản giáo. 

Theo Ivan kể, Chúa đi truyền giảng và làm phép lạ, nhưng hội đồng Tòa Án Dị Giáo bắt người và mang người đến ông quan chủ tọa Tòa.  Ông nói với Chúa Giêsu là người không được giảng dậy về tự do linh hồn nữa. Lý do là dân chúng không làm chủ được mình, nếu có tự do họ sẽ làm xã hội hỗn loạn, vì tự do là trách nhiệm lớn lao, mà họ không có khôn ngoan hay sức mạnh để sử dụng nó.   Ông nói tiếp là dân chúng muốn được một thẩm quyền bên trên dẫn dắt họ, chỉ bảo họ làm gì hay sống như sao.  Miễn là có an ninh trong xã hội, có cuộc sống không xáo trộn thì họ không ngại bỏ đi tự do mà nghe thẩm quyền bên trên.  Sau khi nói xong, ông quan tòa nói Chúa Giêsu đi nơi khác và đừng bao giờ trở lại xứ này nữa.

Câu chuyện của Ivan có nhiều lý thuyết về con người cũng như xã hội của thời kỳ hiện đại.  Con người càng ngày càng có tự do cá nhân, nhưng nó cũng tạo ra nhiều bất đồng ý kiến cũng như hành động.  Những bất đồng này có thể dẫn đến nhiều rối loạn: bên này muốn tổ chức lại xã hội hay kinh tế như thế này, bên kia lại muốn lối kia, bên nọ muốn lối khác hoàn toàn.  Cho nên nhiều người không ngại bớt đi quyền tự do cá nhân để cho một tối cao thẩm quyền quyết định.  Bốn chục năm sau khi Dostoevsky in Anh Em Nhà Karamazov, nước Ý rồi nước Đức leo lên phong trào Phát Xít, dân chúng họ ủng hộ đảng phái của lãnh tụ độc quyền Mussolini và Hitler.  Một thí dụ nhỏ bé hơn là tình trạng tạ Singapore sau Đệ Nhị Thế Chiến, Lý Quang Diệu lãnh đạo nhiều thập niên như một ông vua độc quyền. Nhiều người ủng hộ ông mạnh mẽ vì dù mất đi một số tự do (như tự do báo chí), họ có được cơm áo trong nền kinh tế mà đảng ông dẫn dắt.  Đây là ba thí dụ khác nhau về tranh chấp giữa tự do và an ninh mà Ivan nói ra trong đối thoại này.

Tất nhiên là Alyosha không hẳn đồng ý với anh ruột mình.  Nhưng anh không nói cho lắm mà nghe câu chuyện.  Tối đó thì anh gặp cô Grushenka, và hai người có một đối thoại khác hẳn với đối thoại cùng Ivan.  Lúc đầu, Grushenka nói chuyện như cô thường nói với nhiều người đàn ông khác, có lối khiêu gợi.  Nhưng chỉ sau vài phút, cô cảm nhận là Alyosha khác những người khác: không dối gian, không tự phụ, không lối lăng.  Như một số người khác có thấy, cô thấy Alyosha dù lớn nhưng vẫn dữ được ngây thơ, không chê trách người mà tìm hiểu và thông cảm với họ.  Trong trắng và ngây thơ của anh làm cô cảm động, và cô khóc với anh, kể cho anh về đời cô.   Ngược lại, Alyosha xúc động với nỗi niềm cũng như cảm hóa của Grushenka.  Anh nói với cô chúng ta sẽ là chị em, và khi đi về, anh bắt đầu hiểu được tại sao mà Cha Zosima nói anh nên rời tu viện và vào sống trong xã hội bên ngoài.  Tối đó, anh ngủ đêm cuối cùng tại tu viện.

Dmitri và án mạng ông bố

Còn Dmitri thì sao?  Ngày hôm sau, anh đi kiếm Grushenka và cứ nghĩ là cô đến nhà bố mình.  Nên anh nhẩy rào vào nhà, rình kiếm bằng chứng là ông bố vừa dấu tiền vừa dụ dỗ cô.  Khi đi vào thì ông quản gia nghe tiếng động chạy ra.  Trong bóng tối, Dmitri tưởng ông bố tấn công mình, anh dùng một vũ khí quật ông quản gia một cái, làm ông té xỉu ngay tại chỗ, máu bắn vào quần áo anh.  Dmitri hoảng quá, chạy bỏ đi. 

Đêm đó, tâm trí anh có nhiều hoang mang điên cuồng.  Có lúc anh muốn lấy cây súng tự tử, có lúc anh muốn hoang đàng.  Còn tiền, anh đến một khách sạn quen, gặp được một số người đang ngồi chơi, kể cả Grushenka.  Anh bỏ hết tiền ra rượu chè, bài bạc, mướn gái nhẩy đến diễn cả đêm.  Câu chuyện này khá dài và chi tiết, nhưng trong lúc say xỉn với nhau, Dmitri biết thêm về quá khứ của Grushenka, và cô cũng cảm nghiệm được là trong tình yêu điên cuồng của anh cũng có niềm chân thành với cô, khác những người khác.  Khi trời gần sáng, hai người vẽ mộng với nhau cho tương lai.

Bỗng tự nhiên có công an đến kiếm Dmitri. Họ bảo anh là ông bố anh chết đêm qua, và họ bắt anh trong diện tình nghi.  Lý do là đêm qua vợ ông quản gia đang ngủ nhưng thức dậy khi nghe tiếng người la. Mà tiếng đó là từ Smerdyakov, vì anh này thỉnh thoảng bị động kinh, tức phong đòn gánh.  Không thấy chồng trong phòng, bà ra vườn thấy ông quản gia nằm đó, người máu me nhưng vẫn còn sống.  Bà qua hàng xóm đánh thức bà bạn và cô con bà dậy.  Ba người giúp ông xong, họ qua tham sát nhà ông Fyodor, thì thấy xác ông đầy máu me và có ai giết chết.  Họ báo công an, và sau khi điều tra, họ thấy bằng chứng hướng đến Dmitri vì có mấy người thấy quần áo anh máu me, và anh bỏ tiền hoang đàng đêm đó.  Họ nghĩ là anh giết ông bố một phần vì ghen tương Grushenka và một phần vì ông không cho anh tài sản.  Bốn tháng sau, vụ án xử Dmitri bắt đầu tại quận.

Câu chuyện kết thúc với tuần lễ xử án, và Dmitri  dù có luật sư rất khá, anh vẫn bị kết tội, phải đi tù khổ sai bên Siberia.  Dostoevsky kể nhiều tình tiết về phiên tòa năm ngày, nhưng quan trọng hơn là chuyện xảy ra với các anh em nhà Karamazov trước phiên tòa.  Quan trọng nhất là về Ivan, là vì Smerdyakov thú nhận với anh là hắn là người giết ông Fyodor.  Tại sao?  Là vì Smerdyakov rất phục Ivan, hắn nghe anh lý luận và đồng ý với quan niệm vô thần của anh hoàn toàn.  Theo Ivan, nếu không có Chúa thì loài người bất chấp luân lý, có thể biện hộ được bất cứ chuyện gì.  Về ông bố Fyodor, chẳng hạn, Smerdyakov giết ông là vì hắn nghiệm ra là ông gây ra nhiều chuyện đau lòng, ông vô trách nhiệm với con cái, ông là người đáng chết.  Smerdyakov còn nói với Ivan là anh ta cũng muốn giết bố mình đấy, và hắn chỉ là người thi hành việc cho anh thôi. 

Smerdyakov thú tội với Ivan chỉ có một hai ngày trước phiên tòa, rồi hắn tự tử nhưng không để lại lời viết thú tội, nên Ivan không có bằng chứng giúp việc biện hộ cho Dmitri.  Còn phần Ivan thì anh bị khủng hoảng tinh thần trầm trọng, không ngờ là lý thuyết vô thần của anh có hậu quả nghê gớm với Smerdyakov.  Lúc chuyện kết thúc, thì anh được cô Katerina giúp, có chút hy vọng là anh sẽ hồi sức lại. Còn Dmitri và Grushenka thì quyết định là đi Siberia với nhau, hoặc cũng có thể trốn qua bên Mỹ.  Câu chuyện không nói rõ là hai người sẽ làm gì. Nhưng quan trọng nhất là họ biết được là họ cần có nhau vì chỉ có tình yêu giúp họ thay đổi con người hoang đàng ngày xưa, trở thành con người trong sạch hơn, tốt đẹp hơn trong đời sống nhiều cám dỗ của thời hiện đại.

Kết thúc với Alyosha

Trong mấy tháng trước phiên tòa Dmitri, anh Alyosha quen một nhóm thiếu nhi và thiếu niên trong thị trấn.  Anh giúp nhóm này hòa giải với thằng bé cắn vào tay anh hồi trước, nhất là vì nó đang bịnh hiểm nghèo.  Câu chuyện kết thúc khi thằng bé qua đời, vào hôm anh và nhóm thiếu niên đi đám tang. 

Như nói trên, Aloyosha là người trầm, nói ít hơn là nghe.  Nhưng Dostoevsky kết thúc tác phẩm tiểu thuyết với một phát biểu của Alyosha sau khi chôn thằng bé.  Anh gọi nhóm thiếu niên lại, nói với các em là dù chúng ta không biết tương lai ra sao, dù chúng ta sẽ rồi mỗi người một nẻo, chúng ta hãy luôn nhớ đến người bạn vừa quá cố để cổ động tinh thần và sống mạnh mẽ hơn, đẹp đẽ hơn. 

Với ý tưởng trên, câu chuyện được kết thúc mặc dù người đọc không biết Dmitri và Grushenka sẽ đi Siberia hay có thử trốn đi Mỹ không; hay trường hợp Ivan sẽ ra sao; hay Alyosha còn ở thị xã hay đi với Dmitri và Grushenka hay làm gì khác.  Tức là người đọc không biết chi tiết về tương lai, nhưng biết được là ba anh em Karamazov đều có thay đổi lớn lao khi tiểu thuyết kết thúc. 

Hiện sinh của Dostoevsky là thế: mỗi nhân vật có khía cạnh khác nhau, mà tương lai họ chắc cũng rất khác.  Nhưng ý chí sống phải cố gắng cao cường, phải nhìn nhận mình chân thật, thì mới tạo được ý nghĩa sống cho mình.