
Thế kỷ thứ 19 và 20 là những thế kỷ của tiểu thuyết, kể cả Anh Em Nhà Karamazov đã giới thiệu vào tháng năm. Bây giờ, chúng ta kết thúc loạn bài này với một tiểu thuyết khác, của tác giả người Mỹ Saul Bellow. Tiểu thuyết có tên Seize the Day,một thành ngữ quen thuộc xuất phát từ nhà thơ La Mã tên Horace. Tạm dịch ra tiếng Việt là Sống Cho Hôm Nay hay, mạnh hơn, Nắm Lấy Hôm Nay hoặc là Chụp Lấy Hôm Nay.
Gọi tác phẩm này là tiểu thuyết cũng không hẳn đúng, vì câu chuyện ngắn chứ không dài. Văn học Âu Mỹ dùng từ novel gọi tiểu thuyết, nhưng từ novella thì dùng cho những tác phẩm dài hơn truyện ngắn nhưng lại ngắn hơn hầu hết các tiểu thuyết. Xin tạm dịch “novella” là “bán tiểu thuyết” (cũng như gọi những tiểu thuyết dài như Anh Em Nhà Karamazov hay Chiến Tranh và Hòa Bình là “đại tiểu thuyết”). Thường thường, mỗi bán tiểu thuyệt có trên dưới một trăm trăng. Nếu truyện ngắn ngồi một lần đọc xong, còn tiểu thuyết thì thường là ngồi ít nhất hai ba lần. Còn bán tiểu thuyết thì có thể ngồi một lần đọc hết, mà cũng có thể ngồi hai ba lần.
Đây là trường hợp của tác phẩm Chụp Lấy Hôm Nay của tác giả Saul Bellow (1915-2005), người được giải Nobel về văn chương vào năm 1976. Ông là người gốc Do Thái Giáo, có cha mẹ di cư từ thành phố Saint Petersburg bên Nga qua Bắc Mỹ. Ông ra đời tại bang Quebec bên Canada, đến lúc chín tuổi thì gia đình chuyển qua thành phố Chicago bên Hoa Kỳ. Thật ra, bố mẹ ông mang các con qua Mỹ ở lậu, và mãi tới 27 tuổi Bellow mới có công dân Hoa Kỳ. Mặc dù ông sống nhiều nơi trong đời, Chicago là nơi ông đi rồi trở lại, nơi ông sống lâu nhất. Thành phố cũng là khung cảnh của nhiều truyện ngắn, truyện dài của ông.
Bellow có trình độ cao trí thức, và đọc sách rất nhiều. Thường thường thì các tiểu thuyết gia đọc nhiều. Nhưng có một số người đọc nhiều hơn cả, không đọc không chịu được. Gọi theo tiếng Việt là họ có máu đọc. Một thí dụ là tác giả John Updike, cũng người Mỹ, cũng có danh cùng thời với Bellow. Ông Updike viết khá nhiều tiểu thuyết, nhưng ông cũng viết không ít bình luận sách mới, nhất là tiểu thuyết mới, nhất là cho tờ báo trí thức New Yorker. Ngoài gia đình và xã giao ra, ông đọc và viết thôi.
Còn Bellow thì chỉ viết bình luận lai rai thôi. Nhưng ông thường dậy học, vừa kiếm sống, vừa tác dụng trí thức đọc sách của mình. Trong những năm hai mươi và ba mươi, ông chú trọng viết truyện, nhưng cũng dậy lai rai ở vài đại học. Đến năm 1962, lúc sắp ngũ tuần, thì ông bắt đầu dậy trong một chương trình văn chương và triết học tại Đại Học Chicago, ở đó hơn ba mươi năm. Đại Học Chicago cũng là nơi ông làm việc gần gũi với người bạn thân là giáo sư Allan Bloom, một người đọc sách và sống trí thức còn nhiều như ông. Đến năm 1993, sau khi ông bạn Bloom qua đời, ông và bà vợ cuối chuyển qua Đại Học Boston dậy bán thời gian trong một chương trình hao hao như tại Chicago. Dù gần 80 tuổi, đầu óc ông còn minh mẫn và ông dậy bán thời gian đến vài năm trước khi qua đời.
Các truyện dài Saul Bellow
Bellow viết và in trong nhiều thể loại, kể cả một kịch bản cũng như một hồi ký những cuộc viếng thăm nước Do Thái. Truyện ngắn của ông tập hợp lại in bốn quyển lúc ông còn sống. Còn tiểu thuyết thì có mười quyển in từ năm 1944 đến 2000, tức hơn nửa thế kỷ. Hai quyển đầu không có gì đặc sắc lắm, nhưng quyển thứ ba, Những Phiêu Lưu của Augie March được nhiều phê bình gia và độc giả chú ý, khen thưởng. Tác phẩm này ông viết lúc sống bên Paris năm 1948-1949, in ra năm 1953, và thắng giải thưởng quan trọng National Book Award năm 1954. (Sau này, Bellow thắng hai lần nữa, và là người duy nhất từ trước tới nay được giải này ba lần.) Augie March là một trong những tiểu thuyết dài nhất của Bellow, kể về một anh chàng người Mỹ gốc Do Thái, lớn lên ở Chicago, làm nhiều việc: lúc nặng nhọc, lúc nhàn hạ; thường thường hợp pháp, nhưng cũng có lúc bất hợp pháp. Anh chàng còn đọc sách rất nhiều, và có một thời gian hay ăn cắp sách ở tiệp để đọc. Truyện kể đời anh từ bé đến gần trung tuần, và được nhiều bình luận gia khen ngợi vì dùng ngôn ngữ thông thường, phản ảnh lối nói của đa số người Mỹ chứ không phải lối tinh hoa của tầng lớp cao cấp Hoa Kỳ. Còn về cốt chuyện thì có lối hài hước hao hao như đại tiểu thuyết Don Quixote của tác giả Cervantes người Tây Ban Nha.
Dù thắng một giải quan trọng, sách của Bellow bán chỉ sơ sơ thôi chứ không nhiều như một số tác giả cùng thời. Mãi đến tiểu thuyết Herzog, xuất bản năm 1964 tên sách cũng là tên nhân vật chính, thì sách của ông mới bắt đầu bán chạy. Câu chuyện kể về một ông giáo sư bị vợ cắm sừng với một người bạn ông. (Như nhiều tiểu thuyết Bellow khác, ông dựa câu chuyện này vào đời tư, vì bà vợ thứ hai của ông có ngoại tình với một người bạn ông.) Nên Herzog rầu rĩ viết hết thư này đến thư trong đầu đến những người thân trong gia đình, bạn bè, cũng như một số nhân vật thật nổi tiếng, kể cả một số người không còn sống nữa. Nhưng ông giáo sư không gởi mà dùng viết thư giúp mình hiểu mình thêm một chút. Vì lúc đầu chuyện, ông bực bội với vợ, với bạn, với đời. Nhưng càng viết, ông càng thấy là rõ hơn những thiếu sót lỗi lầm của mình, rõ hơn tính tình khô khan và ích kỷ của mình. Sau đó, Herzog lên đường gặp vợ cũ, bạn cũ, và con ông để hòa giải. Rồi ông cũng sâu đậm tình cảm hơn với người bạn gái, và câu chuyện kết thúc với nhiều hy vọng cho tương lai.
Bellow khá ngạc nhiên với thành công thương mại, là vì tiểu thuyết Herzog có nhiều triết lý, chứ không hào hứng cốt chuyện bằng những chuyện dài đã in. Bellow kể là ông nhận được nhiều thư từ của độc giả, bầy tỏ nỗi niềm giống như nhân vật Herzog. Một chủ đề câu chuyện là sự khô khan của xã hội sau Đệ Nhị Thế Chiến, rất giầu vật chất nhưng cũng nhiều cá nhân hóa. Còn về phía bình luận thì tiểu thuyết được rất nhiều nhà phê bình khen từ lúc xuất bản đến nửa thế kỷ sau. Với thành công to lớn, Herzog thành một khúc ngoặc quan trọng trong đời viết lách của Bellow. Từ đó ông không còn phải lo về đời sống kinh tế. Công việc dậy học tại Đại Học Chicago cũng yên ổn, ông không phải tìm việc dậy tạm một hai năm ở đây ở kia như hồi trước.
Không như một số tác giả giảm cân xuất bản sau khi thành công, Bellow vẫn xuất bản đều đều sau quyển Herzog. Trong thập niên 1970, ông xuất bản hai tiểu thuyết. (Năm 1976 ông nhận giải thưởng Nobel.) Thập niên 1980 cũng thế. Tiểu thuyết cuối cùng, dựa vào đời người bạn Allan Bloom, ra đời năm 2000, lúc ông 85 tuổi, cũng được nhiều tác giả và phê bình gia đánh giá khá cao. Bellow làm việc chăm chỉ đều đặn. Đời sống hôn nhân của ông nhiều sóng gió và khá rắc rối, vì ông lấy vợ năm lần và ly dị bốn lần. Phải tới hôn nhân cuối, mười sáu năm cuối đời, thì ông mới có hạnh phúc lâu dài.
Không phải lúc nào cũng có nhiều người khen văn chương Bellow, mà cũng có một số phê bình về suy tưởng, nghệ thuật, và cách hành văn của ông. Một số người cho rằng lối viết truyện của ông giống lối viết tả thực của thế kỷ thứ 19 quá, hơi cũ kỹ hơn là mới mẻ. Ngược lại, nhiều người phê bình lối bầy tình tiết của ông, làm câu chuyện đi lộn xộn chứ không liên kết chặt chẽ với nhau. Có người thì công nhận ông khá thành công khi tả các nhân vật nam, nhưng cho là ông yếu kém khi diễn tả các nhân vật nữ. Có người thì nhận định là nội dung tiểu thuyết ông quá nhiều lúc triết lý quá, nhất khi nói về quyển sách này hay quyển sách kia.
Ngược lại, danh tiếng Bellow vẫn mạnh mẽ hơn mười năm sau ông chết. Nhiều người cho ông là tác giả hay nhất về diễn tả đời sống thành thị của thế kỷ 20. Người thì nhận định rằng lời văn ông vừa sống động, vừa tự nhiên, mà cũng không dễ viết. Người thì cho văn ông có nhiều hài hước thâm sâu, và cũng như một số nhân vật nữa. Có người thì không coi lối mang triết lý vào chuyện là rối, mà ngược lại là độc đáo cho văn chương Hoa Kỳ trong thế kỷ 20.
Chụp Lấy Hôm Nay
Ngoài mười tiểu thuyết, Bellow còn bốn bán tiểu thuyết mà Chụp Lấy Hôm Nay là quyển đầu tiên màcũng là quyển nổi tiếng nhất. Ra đời năm 1956, tức là sau Augie March và trước Herzog, tác phẩm này chỉ có 114 trang trong bản in mới nhất. Nội dung và lối hành văn không triết lý mà chú trọng về diễn tả đời sống và vấn nạn của nhân vật chính. Ngay cả những người phê bình văn chương Bellow nặng nhất cũng công nhận là bán tiểu thuyết này có nhiều xuất sắc.
Câu chuyện Chụp Lấy Hôm Nay xẩy ra tại thành phố New York, nơi mà Bellow sống một thời gian trước khi trở về Chicago đầu thập niên 1960. Nhân vật chính câu chuyện là anh Tommy Wilhelm, thường được gọi là Wilhelm chứ không phải Tommy. Ông nội Wilhelm là người gốc Do Thái, có họ là Adler, di cư qua Mỹ từ Âu Châu. Ông và vợ chịu đựng làm ăn, có người con trai, tức ông bố Wilhelm, học thành bác sĩ và khá thành công trong địa vị xã hội cũng như tiền bạc. Khi câu chuyện mở đầu, Wilhelm đã hơn bốn mươi tuổi và đang sống tạm tại một khách sạn lối chung cư. Còn bố anh tức ông bác sĩ Adler bây giờ đã về hưu và góa vợ. Ông cũng sống tại khách sạn đó, nhưng rủng rỉnh tiền bạc hơn trong khi con trai mình còn ít tiền thôi.
Trong đầu chuyện Bellow cho chúng ta biết về quá khứ của Wilhelm. Lớn lên trong gia đình trung lưu gốc Do Thái, anh học xong trung học rồi đến Đại Học Penn State học có hơn một năm thôi. Có tướng cao ráo đẹp trai, nh bỏ học đi qua nam Cali để theo mộng làm tài tử Hollywood. Bố mẹ anh không hài lòng về chuyện đó vì họ muốn anh đi học trường thuốc. họ không ủng hộ anh chút nào. Khổ nổi là cuộc thử thời vận bên Hollywood của Wilhelm cũng chẳng đi tới đâu, nên ông bác sĩ Adler lại lạnh nhạt với thằng con trai hơn. Ngoài Wilhelm, họ có người con gái học xong đại học, nên ông bố coi thường Wilhelm hơn nữa. Sau đó, Wilhelm đi làm hãng buôn bán, ba bẩy chứ không có lợi tức nhiều và đều đặn như bố mình. Anh lấy vợ và có hai đứa con, nhưng hôn nhân có lủng củng trong những năm gần đây. Hiện giờ anh và vợ đang ly thân. Anh thì muốn ly dị, nhưng cô vợ thì không chịu, có thể vì đời sống kinh tế cô bất ổn sau ly dị. (Lúc đó, phụ nữ không đi làm nhiều như bây giờ.)
Tâm lý Wilhelm lúc đầu chuyện có nhiều lo âu, vân phân, buồn bực. Như nói trên, quá khứ giữa hai cha con bác sĩ Adler và con trai Wilhelm không được tốt đẹp cho lắm. Ông bố là lối người xuất thân từ gia đình di dân gốc Do Thái từ Đông Âu, dù sinh ra tại Hoa Kỳ nhưng lớn lên trong cộng đồng gốc Do Thái đông đảo ở tiểu bang New York. Họ có nhiều điều giống người di dân gốc Á Châu, nhất là chú trọng vào giáo dục hay buôn bán. Đời di dân thì lao động cực nhọc để tiến thân. Thời cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, vẫn có nhiều lúc họ bị người bổn xứ kì thị, dù không bị nhiều kì thị bằng người Mỹ da đen. Nhưng họ quyết tâm làm kinh doanh hay lao động tay chân, để con cái họ đi học ra làm những nghề được xã hội coi trọng như luật, y khoa, thiết kế, và kỹ sư.
Bác sĩ Adler là thí dụ điển hình của thế hệ con cái di dân. Dù có “Mỹ hóa,” nhưng những người như ông bác sĩ coi trọng đời sống kinh tế cũng như vị trí xã hội. Lối nhìn của họ có tính chất thực tế cũng như hướng về vật chất. Có nhiều lý do họ sống như vậy, kể cả có phần chấp nhận truyền thống của cộng đồng mình, không ham vọng ngoài những gì cộng đồng mình coi trọng. Bây giờ, ông về hưu rồi. Vợ ông đã qua đời rồi ông có tiền bạc nên rủng rỉnh. Nhưng khổ nỗi cho thằng con trai ông, đang túng thiếu nhưng ông không muốn giúp nó chút nào vì nó không nghe lời ông bà.
Một giải thích cho bất đồng cha con là thế hệ di dân và thế hệ thứ hai có nhiều điểm rất giống nhau. Nhưng tới thế hệ thứ ba thì có nhiều thay đổi. Anh chàng Wilhelm là biểu tưởng cho một số người Mỹ gốc Do Thái của thế hệ này. Anh cao ráo đẹp trai, khi lớn lên có ước vọng làm tài tử đóng phim. Thế hệ ông cha anh có một số người làm nghề đóng kịch hay ca hát. Nhưng đó là số ít thôi. Đến thế hệ của anh thì có nhiều tự do hơn, nếu nói là “muốn làm gì thì làm” không hẳn là đúng. Nhưng thế hệ anh không suy nghĩ là đời mình sẽ “hạn chế” như ông bà cha mẹ. Đi học làm bác sĩ, luật sư không phải không được. Nhưng xã hội Hoa Kỳ có nhiều người theo đuổi những cái khác thành công, nhất là trong lãnh vực truyền thông hay giải trí. Nên họ lớn lên trong mơ ước khác thế hệ cha mẹ họ. Khi thành công thì cha mẹ vui lây hay hãnh diện. Nhưng khi thất bại thì có thể bị xa lánh, nhất là khi cha mẹ không hài lòng từ lúc đầu.
Bác sĩ Adler thì ngày xưa đã không hài lòng rồi. Lúc Wilhelm 20 tuổi, anh bỏ học bay qua Hollywood, đổi tên Wilhelm Alder thành Tommy Wilhelm. Nhưng theo đuổi mộng tài tử không thành, anh trở về tiểu bang New York đi làm người đại diện bán hàng cho công ty này đến công ty khác. Nghĩa là đời sống kinh tế anh không được đều đặn, nên ông bố hồi trước đã không hài lòng, sao này vẫn tiếp tục coi thường con mình nữa. Còn cô em gái của anh thì khá hơn, học hành xong đại học rồi có việc làm vững chắc. Cô ta cũng đổi tên từ Catherine ra Philippa, nhưng mãi sau này mới đổi, chứ không lúc mới hai mươi như anh mình. So sánh với “thành công” của cô, anh rõ ràng là đứa con bị thất bại. Nhất là lúc chuyện mở màn vì anh chán chường công việc và bỏ hãng. Tâm trí anh còn thèm về sống nơi thị trấn bé nhỏ hay vùng thôn quê, ngán ngường đời sống đô thị to lớn New York.
Ngoài thất bại nghề ngỗng và tài chánh ra, Wilhelm còn thất bại về tình yêu. Trong những năm theo đuổi giấc mơ tài tử, anh lấy vợ. Về lại New York, hai người có hai đứa con, nhưng hôn nhân bị sứt mẽ và hai vợ chồng đang ly thân. Wilhelm thực ra muốn ly dị vì gần đây anh có quen một người phụ nữ khác. Nhưng cô vợ không chịu ly dị, mà cũng làm khó khăn khi anh muốn gặp con. Anh không có nhà từ lúc bắt đầu ly thân, phải ở tạm nơi khách sạn dài hạn, chung quanh toàn người về hưu 70, 80 tuổi như cha anh. Nghĩa là Wilhelm đang ở tình trạng tiến thoái lưỡng nan. Anh chỉ còn 700 đô la, chắc khoảng chục ngàn bây giờ, nghĩa là rất ít với người hơn bốn mươi tuổi có hai con.
“Bác sĩ” Tamkin
Tới đây, chúng ta gặp nhân vật chính thứ ba câu chuyện là một ông đứng tuổi tự xưng mình là “Doctor Tamkin.” Ông này cũng ở một phòng dài hạn của khách sạn, như bác sĩ Adler và Wilhelm. Ông già hơn Wilhem nhưng trẻ hơn Adler, và có tài ăn nói, lúc có thực tế, lúc thì triết lý. Nhưng không phải ai cũng tin ông, mà nhiều người tại khách sạn, kể cả bác sĩ Adler, nghĩ là ông hay xạo. Ngay cả Wilhelm thỉnh thoảng cũng có cảm tưởng ông này có gì mờ ám. Nhưng tâm trí anh lúc này như người đang đắm tàu, ngồi nhìn nước trôi vào ào ào, nên cần kiếm phao để cứu mình. Nên anh nghe Tamkin nhiều hơn là nghi ông.
Tamkin tự giới thiệu mình là “bác sĩ” tâm lý, và ông quen Wilhelm cũng như Adler khi họ và vài người trú khách sạn chơi bài giải trí buổi tối. Khi chuyện mở đầu, thì Tamkin đã cho Wilhelm biết là ông chữa được vấn đề tâm lý của nhiều người. Ngoài ra, ông còn rành đầu tư, nói là ông “đọc” khá chính xác những thay đổi của thị trường. Theo ông thì ngay thị trường sắp “nóng hổi” về loại mỡ lợn – tiếng Anh gọi là “lard” và là thứ mỡ khá phổ thông cho đến thập niên 1970. Tamkin dụ Wilhem đầu tư, làm anh ngả lòng vì anh nghĩ là có nhiều tiền bạc sẽ làm ông bố anh nể anh hơn.
Nhưng đâu phải chỉ vì mộng ước tiền bạc là lý do duy nhất mà Wilhem đưa hết tiền cho ông Tamkin đầu tư không. Dù có hỗn loạn tâm trí, không phải ai cũng đưa tiền cho người khác, nhất là khi nó là số tiền còn lại. Wilhelm không phải là người ngu xuẩn. Một động lực làm anh đưa bảy trăm còn lại cho Tamkin là nhiều điều Tamkin nói rất có lý đến tai anh – cũng như tai người đọc. Nếu bố anh không hài lòng với anh mà cũng không giúp anh, thì Tamkin là tỏ ra rất thông cảm với anh. Ông nghe được lời than phiền của anh, chứ không chê bai anh như bác sĩ Adler. Nếu so sánh những đối thoại giữa Wilhelm và bác sĩ Adler một bên, rồi giữa Wilhelm và Tamkin, thì chúng ta thấy được rõ ràng tương phản về hay ông lớn tuổi này. Một ông thì chê bai con mình, còn ông kia thì nói chuyện với Wilhelm như một bạn thân, một thầy đời, và một ông bố thứ hai vậy. Dù có lúc Wilhelm nghĩ Tamkin là người nói dóc, anh nghe lời ông một phần vì tâm trạng anh ta muốn có một người cha chấp nhận chứ không chê bai mình. Anh nghe lời cổ động của ông, là “mày phải chụp lấy hôm nay,” chứ đừng lo sợ. Nói theo tiếng Việt là có gan mới làm giầu. Vì thế mà Wilhelm liều mạng đưa hết tiền cho Tamkin đầu tư vào mỡ lợn.
Xã hội hiện đại Hoa Kỳ
Nhưng tới chiều thì anh thấy là thị trường mỡ lợn xuống hẳn luôn, đến nỗi tiền bạc đầu tư anh chắc không còn đồng nào. Anh vội vã đi kiếm Tamkin thì ông này biến mất đi đâu rồi, không tăm tích gì. Thì ra là anh đã bị ông gạt lấy hết tiền.
Đây không phải là lần đầu tiên mà Wilhelm bị lừa. Trong phần đầu của tác phẩm, Saul Bellow viết là hồi mới học đại học, Wilhelm ghi danh vào một cơ quan đại diện cho những người muốn thử vận trong giải trí như đóng phim và làm người mẫu. Wilhelm lúc đó dễ tin người, tin hắn đại diện cơ quan là anh có dáng vóc làm người mẫu hay tài tử. Nên anh bỏ tiền ra trả cho hắn. Sau này, khi đã sống ở Hollywood một thời gian anh mới thấy là hắn ta tưng anh lên để lấy tiền, chứ không tích cực giúp cho anh.
Có phải Wilhelm là người dễ bị lừa không? Đây là câu hỏi dễ trả lời, là vì điều quan trọng là về đời sống thời hiện đại ở Hoa Kỳ, cứ không hẳn là chỉ cá nhân Wilhelm. Xã hội hiện đại tại Hoa Kỳ tự do hóa tư tưởng con người. Với công nghiệp hóa và thành thị hóa từ thế kỷ thứ 19, xã hội có nhiều truyền thông và giải trí cho mọi người. Thí dụ là các thành phố lớn đều có đội banh này hay đội banh kia, giúp người dân địa phương có gắn bó với nhau trong thời gian chuyển tiếp từ thôn quê đến thành thị. Đến thế kỷ 20 thì truyền thanh như radio, đĩa hát, phim và tivi tạo ra những quyến rũ mới cũng như những tạng hình mới. Con người trong xã hội này có nhiều tự do hơn cho tương lai mình. Nhưng họ cũng gặp nhiều gian nan hơn, là vì giá trị của xã hội càng ngày càng tăng về mặt vật chất.
Kết thúc câu chuyện
Điều quan trọng của nghệ thuật không phải là chỉ lối đường đi cho ta. Về cái đó, chúng ta cần triết lý, tôn giáo, và tâm lý học. Điều quan trọng nhất trong nghệ thuật là giúp ta thấy được sự thật. Cho nên có nhiều lúc nghệ thuật góp phần phê bình xã hội, để chúng ta thấy rõ hơn kể cả các vấn đề cuộc sống trong xã hội. Đó là một lý do mà nhiều người ca ngợi nghệ thuật của Bellow.
Bán tiểu thuyết chia ra năm chương, và chương cuối là về ba chuyện liên tục với Tommy Wilhelm. Sau khi biết mình bị Tamkin lừa lấy tiền, Tommy kiếm ông bố tại khách sạn, xin ông giúp mình. Nhưng bác sĩ Adler nhất định không giúp mà còn cho là Wilhelm cần bài học lừa gạt của Tamkin. Trước đây ông đã lên tiếng cảnh giác Wilhelm về Tamkin, nhưng anh không nghe nên bây giờ ông bực anh hơn nữa. Nghĩa là Wilhelm thất bại hoàn toàn về tài chánh cũng như niềm ao ước được cha mình chấp nhận.
Thứ nhì, anh nói chuyện qua điện thoại với cô vợ, và cô nhất quyết không muốn ly dị anh. Càng nói chuyện anh càng bực tức, là vì vợ không thông cảm gì cho anh. Trong tâm trí anh cảm thấy thất bại hoàn toàn về hôn nhân cũng như con cái.
Trong lúc choáng váng tinh thần, Wilhelm ra đường đi bộ như người gần mất thần. Đi sao, anh gặp một đám đông đang vào viếng xác một người mới qua đời. Anh chẳng biết người chết là ai, nhưng khi thấy hòm anh bật khóc. Lúc đầu anh khóc nho nhỏ, nhưng chỉ một chút sau anh khóc to hơn, rồi to hơn, rồi to đến nỗi nhiều người nghĩ chắc anh là người thân của người quá cố. Nhưng thật ra Wilhelm chẳng quen biết người này chút nào, mà cũng chẳng biết ai trong những người viếng xác. Bellow kết thúc bán tiểu thuyết với câu viết rằng “anh khóc cho đến lúc đạt được nguyện vọng của trái tim anh.”
Câu này là ý sao? Nguyện vọng trái tim là gì? Đối với Saul Bellow, xã hội hiện đại Hoa Kỳ đưa con người nhiều tự do nhưng cũng nhiều cám dỗ cô độc. Trong chuyện, có những lúc Wilhelm cảm thấy cuộc sống của anh từ hồi 20 dẫn đến cô độc. Lúc nhìn xác chết người lạ, anh bật khóc có thể vì anh biết được mình cần chết lối sống cũ để được một đời sống đẹp hơn. Tất nhiên, đây chỉ là một giải thích thôi, là vì Bellow hay để kết cục mờ ám, tức là hao hao như Dostoevsky, chứ không rõ ràng. Đó là vì ông coi trách nhiệm của tiểu thuyết gia không phải là chỉ đường cho ta đi, mà là cho ta thấy được vấn đề thôi. Đây là một lý do mà tác phẩm Chụp Lấy Hôm Nay sau nửa thế kỷ vẫn được coi là một trong những tác phẩm giá trị nhất của văn chương thế kỷ 20 ở Hoa Kỳ.
Leave a comment